ZingTruyen.Fan

Co Thanh Be Milan Lady

1. Lô nhạn

Khắc cuối cùng sửa sang lễ vật, ta do dự, ánh mắt dao động trên cuộn "Lô nhạn đồ" của Thôi Bạch hồi lâu, rốt cuộc vẫn nhặt ra, không dâng lên ngự lãm cùng những bức thư họa khác.

Có thể kim thượng không biết chuyện giữa Thu Hòa và Thôi Bạch, nhưng hoàng hậu thì nắm rõ trong lòng nên ý trong bức tranh này, bà xem ắt sẽ hiểu ngay, mà thân phận của Thu Hòa nay đã khác xưa, dư tình của Thôi Bạch mà bị hoàng hậu phát hiện chung quy vẫn không phải việc tốt lành gì.

Nhóm lễ vật này rất được đế hậu tán thưởng. Lúc công chúa và phò mã vào cung chúc mừng, kim thượng còn đặc biệt nhắc đến những bức tranh này, kim thượng hỏi Lý Vĩ: "Thư họa phủ công chúa dâng lên đều là do con chọn?"

Lý Vĩ gật đầu thưa vâng, kim thượng và trung cung nhìn nhau cười, ánh mắt lộ vẻ khen ngợi, nói: "Đẹp lắm. Bút lực vẽ hoa không xương của Từ Sùng Tự ngày càng tinh tiến, bốn mùa non nước của Quách Hi cũng khiến người ta lạ mắt lạ tai."

Lý Vĩ không biết việc ta đổi thư họa của hắn, nghe kim thượng nói vậy thì ngẩn người.

Hoàng hậu lại hỏi hắn đúng lúc này: "Chắc hẳn đô úy rất có tâm đắc với bút nghiên đan thanh nên giờ mới chọn được toàn tinh phẩm như thế. Từ Sùng Tự thành danh đã lâu nhưng tác phẩm của y trong cung lại chẳng có mấy, mà tranh của Quách Hi thì hiếm thấy từ xưa, khá là mới mẻ, đô úy tìm được từ đâu vậy?"

Lý Vĩ sững sờ không biết trả lời sao, ta bèn cúi người với hoàng hậu, đáp thay hắn: "Đô Úy từng chiêm ngưỡng họa tác của Hà Dương Quách Hi, thường khen y giỏi vẽ nước non rừng già, gần đây nghe nói y di cư tới kinh sư, bèn lệnh thần hỏi thăm tìm kiếm, nhờ đó mua được tân tác của y."

"Đô úy nghe nhiều biết rộng, không chọn tranh theo tiếng tăm họa gia mà chọn sơn thủy của người thời nay, ánh mắt độc đáo lắm thay, người thường khó ai bì kịp." Hoàng hậu cười khen Lý Vĩ, lại hỏi ta: "Tính tình Quách Hi thế nào?"

Ta đáp: "Ôn hòa khiêm tốn, đối nhân xử thế nho nhã lễ độ."

Hoàng hậu bèn đề nghị kim thượng: "Non nước Quách Hi vẽ không thua gì chư vị đãi chiếu trong Họa viện, vận bút lập ý xuất sắc hơn người, không bằng vời về Họa viện, để hắn tiếp tục lịch lãm trong đó, qua một thời gian ắt sẽ đại thành."

Kim thượng gật đầu khen hay, gọi đô tri chủ quản Hàn lâm họa viện tới bàn giao việc này.

Từ trong cung trở về, Lý Vĩ ba phen mấy bận muốn nói lại thôi, lưỡng lự cả một ngày, rốt cuộc, đến bữa tối ngày kế thì đem việc này ra hỏi ta: "Tranh của Từ Sùng Tự và Quách Hi là do tiên sinh thêm vào danh mục lễ biếu?"

Ta thừa nhận, nói với hắn: "Tranh đan thanh không nhất thiết phải sùng cổ. Luận về Phật Đạo, người vật, tố nữ, trâu ngựa thì quả tình kim không bằng cổ nhưng luận về non nước, rừng đá, hoa trúc, chim cá thì cổ không bằng kim, họa sĩ quốc triều hơn tiền nhân rất nhiều, trong đó, hai người Từ, Quách là nổi trội nhất. Chọn tác phẩm của họ cũng có thể được lòng thánh ý."

Hắn chần chừ, lại hỏi: "Vậy tranh họa ta chọn, tiên sinh có dâng lên cùng không?"

Ta thoáng cân nhắc, cuối cùng vẫn ăn ngay nói thật: "Tranh của Vương Hi Chi, Trương Huyên và Lý Thành vẫn để trong phủ, những bức còn lại thì đưa cả vào cung rồi ạ."

Lý Vĩ ngạc nhiên: "Sao tiên sinh lại giữ tranh của mấy vị danh gia kia lại? Lẽ nào quan gia không thích họ?"

Nhất thời, ta không biết phải trả lời câu hỏi này thế nào cho uyển chuyển, vừa làm hắn ý thức được vấn đề trong đó, vừa không đến mức khiến hắn khó chịu, nên trầm mặc trong phút chốc, vậy nhưng Dương phu nhân lại nhè đúng lúc này xen miệng, nói ra suy đoán của mình: "Không phải công chúa thấy thích nên giữ lại đấy chứ?"

Công chúa nghe vậy cười xì một tiếng, lạnh mặt nghiêng đầu, mặc kệ bà.

Vẻ mặt nàng tức thì chọc mẹ chồng bất mãn, Dương phu nhân cũng cười khẩy, lấy ta ra phát động công kích: "Nếu không phải công chúa thích thì nhất định là Lương tiên sinh thấy thích nên giữ lại cho mình rồi? Dùng mấy bức tranh chữ rẻ mạt đi đổi đồ cổ con tôi bỏ bao nhiêu tiền của mua về mà vẫn có thể được quan gia và hoàng hậu khen ngợi, Lương tiên sinh thật có bản lĩnh, sau này dạy phò mã chút ít đi, để nó cũng biết đường làm ăn sao cho lợi lộc được vậy!"

Công chúa giận tím mặt, quắc mắt lườm hai mẹ con Lý Vĩ, thẳng thừng quở trách: "Hoài Cát không nói rõ chân tướng ra là vì nể mặt phò mã đó thôi, hôm qua mà không có mấy bức huynh ấy thay vào thì trước mặt cha mẹ ta, phò mã đã mất hết thể diện rồi. Các người đã lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử còn độc mồm độc miệng như vậy, thật không biết tốt xấu!"

"Chân tướng? Còn có thể có chân tướng gì?" Dương phu nhân lập tức cao giọng phản bác, "Lẽ nào việc có người ngăn chặn bảo bối phò mã hiến lên quan gia lại còn là giả?"

"Việc ấy không giả, nhưng chịu lời ngài đây lại có giả thật đấy." Công chúa liếc nhìn Bạch Mậu Tiên hầu hạ trong sảnh, ra lệnh: "Tiểu Bạch, ngươi nói cho phò mã và quốc cữu phu nhân nghe xem giả chỗ nào đi."

Tiểu Bạch lưỡng lự, không dám mở miệng ngay. Lý Vĩ như dần ý thức được vấn đề trong đây, bèn thử hỏi dò Tiểu Bạch: "Mấy bức thư họa đó của ta là giả?"

Tiểu Bạch cúi đầu, ngầm thừa nhận. Dưới yêu cầu của công chúa, cuối cùng nó cũng nhỏ nhẹ cất tiếng giải thích về sơ hở của những bức tranh kia. Lý Vĩ nín bặt lắng nghe, mặt tái mét, đầu cũng càng cúi càng thấp, không nói được thêm câu nào.

Mà Dương phu nhân nghe Tiểu Bạch kể bản gốc "Độc bi khoa thạch đồ" đã được Bùi Tương sưu tầm, hiện đang cất trong Bí các thì lại nói: "Sao các người biết được bản Bùi thừa chế mua là thật còn của con tôi mua thì là giả? Hình vẽ đều y hệt nhau, chẳng nhẽ bức ông ta mua nhiều hơn vài chữ thì có thể kết luận là thật?"

Công chúa không nhịn được nữa, phất tay áo đứng lên, nói với ta: "Hoài Cát, chúng ta đi."

Kể từ đó, Lý Vĩ càng thêm trầm mặc, rất ít khi qua lại với đám con cháu hào phú trước kia, thay vào đó cơ hồ dồn hết tinh lực vào học tập đánh giá thư họa, thường xuyên giam mình trong thư phòng xem các tác phẩm cất giữ và sách vở liên quan cả ngày lẫn đêm, thỉnh thoảng có ra cửa cũng hơn nửa là đi mua thư họa danh gia.

Một ngày nọ, hắn tới tìm ta, lễ phép hỏi ta có tranh họa của Thôi Bạch không, hắn muốn chiêm ngưỡng.

Hiện giờ, chỗ ta chỉ cất giữ duy nhất bức "Lô nhạn đồ". Nhưng ta không lấy ra cho hắn xem, chỉ nói: "Chỗ tôi cũng không có tác phẩm của Thôi Bạch, có điều, tôi và huynh ấy là chỗ quen biết nhiều năm, nếu đô úy có ý thì đừng ngại hôm khác cùng tôi tới bái phỏng huynh ấy, đến lúc đó chắc chắn sẽ được thưởng thức họa tác của huynh ấy."

Ta chưa nói với bất kỳ ai về "Lô nhạn đồ", kể cả với công chúa. Ta nghĩ Thôi Bạch lựa tranh này đưa ta có lẽ là hi vọng một ngày nào đó Thu Hòa có thể nhìn thấy. Trong thâm tâm, ta cũng hi vọng Thu Hòa biết được, chỉ là thân phận cô bây giờ đặc thù, chuyển vật này cho cô khiến ta phải suy xét rất nhiều, cũng chẳng phải chỉ là băn khoăn cung quy.

Suy xét kéo dài đến hơn nửa năm. Tháng Tám năm Gia Hựu thứ ba, rốt cuộc ta cũng quyết định mượn dịp công chúa vào cung chúc mừng sinh nhật Miêu hiền phi để mang tranh tới trước mặt Thu Hòa.

Ngày ấy công chúa chúc thọ mẫu thân, trước đó đã được đế hậu cho phép, có thể ngủ lại trong cung một ngày. Ta đi theo nàng, nhân tiện cầm tranh vào cung.

Thu Hòa có vẻ bị ốm nhẹ, tinh thần không sung túc, trước tiệc mừng thọ tới chúc mừng sớm Miêu nương tử, biếu quà lễ xong là cáo từ về gác mình luôn.

Ta vội cầm tranh, tiễn cô về nơi ở, cô cũng nhiệt tình giữ ta lại một chốc, uống trà trò chuyện. Thấy trong gác đều là thân tín của cô, ta mới lấy "Lô nhạn đồ" ra, hai tay dâng lên, nói: "Tôi có người bạn cũ, thiện vẽ hoa điểu, gần đây tặng tôi bức họa này, tôi thấy tranh rất thú vị, lại nhớ Đổng nương tử rất thích hoa trúc lông vũ nên mang đến gửi tặng nương tử, mong nương tử vui lòng nhận cho."

Thu Hòa tiếp nhận, mở ra xem, sóng mắt êm dịu tựa xuân thủy hơi sững lại, hiển nhiên đã tỏ tường hết thảy căn do.

Cô đăm đăm ngắm bức họa, thẫn thờ im lặng không lên tiếng, một lúc lâu sau mới cụp mắt, giấu đi ánh nước len lén dâng lên, cuộn bức tranh về nguyên trạng, giao trả lại ta, nở nụ cười nhạt nhòa: "Tôi học thức thô thiển, vốn không biết phẩm bình thư họa, tặng tranh này cho tôi phí lắm. Hoài Cát mang về đi thôi, giữ lại cho mình hay trả vị tiên sinh kia đều được."

Ta hơi bất ngờ, những cũng chẳng quá kinh ngạc, bèn nhận lại tranh, gật đầu bằng lòng.

Sau đó, hai ta lại tán gẫu thêm đôi lát, chỉ nói về những chuyện vụn vặt gần đây của mình, không đề cập một câu nào đến Thôi Bạch.

Lúc ta cáo từ, cô đứng dậy muốn tiễn ta, có lẽ động tác quá đột ngột, cô hơi chóng mặt, thoáng lảo đảo.

Ta và thị nữ cạnh cô vội đỡ lấy hai bên. Thấy sắc mặt cô xám xịt, khí sắc ảm đạm, ta bèn ân cần hỏi cô quý thể không khỏe, có muốn mời thái y qua thăm mạch không.

Cô mỉm cười ôn hòa nhìn ta, chẳng hiểu sao lại khiến ta cảm thấy ánh mắt cô thật thê lương, tựa như khoảng thời gian ngắn ngủi này đã làm tuổi hoa tươi đẹp trong cơ thể trẻ trung của cô đột ngột già đi.

"Hoài Cát," Cô vẫn duy trì nụ cười ngẩn ngơ như cũ, tay phải xoa bụng dưới của mình, khẽ giọng: "Chắc là...tôi có mang rồi."


2. Tin vui

Vài thái y sau khi hội chẩn thỉnh mạch đã nhất tề chúc mừng kim thượng: Văn Hỉ huyện quân có thai.

Thật khó để ta có thể kể hết được phản ứng của kim thượng lúc ấy, chỉ có thể nói, đây không thể nghi ngờ là chuyện khiến ngài vui mừng nhất trong suốt mười mấy năm qua. Thoạt tiên, ngài thở phào một hơi dài như bỗng nhiên dỡ bỏ được một nửa gánh nặng trên vai, tiếp đó mới chợt mừng chợt hãi chợt mừng rạng rỡ tươi cười, ánh mắt lướt qua gần trăm vị cung quyến đợi tin ngoài rèm, hiện đang hành lễ chúc mừng ngài, tìm đến mấy vị đô tri hai tỉnh tiền hậu, giọng run run: "Mau đi chuẩn bị lễ tế thái miếu... Rồi đi kiểm kê vàng bạc gấm vóc, bình vò dụng cụ, đồ vật lặt vặt, chuẩn bị tương lai ban tặng... Đi xem xem tướng công có còn ở Trung thư môn hạ không... Học sĩ trực đêm hôm nay là ai?"

Tin vui hậu cung lần này nhận được sự quan tâm và coi trọng chưa từng có không chỉ ở trong cung cấm đại nội mà còn ở cả triều đình dân gian. Hoàng đế bốn mươi chín tuổi sau mười mấy năm chờ đợi rốt cuộc cũng thu được hi vọng nối dõi, đám đại thần giục ngài sớm ngày chọn tông thất lập hoàng tử cũng vì thế im miệng, ai nấy đều không ngớt dâng sớ chúc mừng. Trong niềm hân hoan, ngay ngày hôm sau, kim thượng tuyên bố tu sửa lại công xá nơi tiến hành xử lý công vụ của phủ doãn Khai Phong thời vua Chân Tông thành "Tiềm Long Cung" phục vụ cho hoàng tử tương lai sử dụng.

Trong gác Thu Hòa bỗng chốc náo nhiệt hẳn lên, ngoài hoàng đế mỗi ngày đến thăm cô mấy bận thì các cung quyến bất kể bình thường có thân với cô hay không cũng đều nối đuôi nhau đến thăm. Công chúa cũng nhân đó nán lại trong cung thêm hai ngày, chọn hoa văn trang trí thêu lên khăn bọc tặng cho đứa trẻ lúc hạ sinh, đồng thời hào hứng định bụng tự tay thêu hoa cho Thu Hòa.

"Nương tử mà sinh cho ta một đứa em gái thì tương lai ta sẽ đích thân may váy hoa cho nó." Công chúa cười nói với Thu Hòa.

Kết quả bị Miêu hiền phi dùng quạt lụa đập cho một cái: "Nói linh tinh! Đổng nương tử sinh cho con là sinh em trai." Miêu nương tử mắng rồi quay sang Thu Hòa, cảm khái nói lời thành khẩn: "Muội muội, em mà sinh được hoàng tử thì một bước lên trời rồi..."

Thu Hòa chỉ cười cúi đầu, không tiếp lời.

Trước khi ta theo công chúa xuất cung, có tới thăm Thu Hòa, vừa vặn gặp kim thượng đi từ trong gác cô ra, khóe miệng ngậm cười, mặt mày hớn hở. Vào xem, trong sảnh bày đầy dụng cụ vàng ngọc, gấm vóc tơ lụa, quả thực rực rỡ muôn màu.

Mà Thu Hòa thì lại nấp sau màn sa, âm thầm lau lệ.

Ta dè dặt hỏi cô vì sao không vui, cô miễn cưỡng cười gượng với ta, nói: "Hoài Cát, chúc phúc cho tôi được không? Xin trời cao cho tôi sinh hoàng tử đi."

Ta lập tức gật đầu: "Đương nhiên, tôi sẽ cầu phúc cho cô."

"Tôi...sợ lắm." Cô rầu rĩ cụp mắt, thì thào thổ lộ với ta sầu não của mình, "Tôi sợ sẽ khiến quan gia thất vọng... Bây giờ ngài vui vẻ thế này, nếu tôi không sinh được con trai, tương lai nhất định ngài sẽ rất đau lòng..."

Tuy không thể nói được câu nào an ủi cô nên hồn, nhưng ta có thể tưởng tượng được cảm thụ của cô. Các thái y đều tỏ vẻ, từ mạch tượng, rất có khả năng Thu Hòa hoài nam thai, chúng cung quyến cũng nói cô có dấu hiệu nam tướng, kim thượng thì gần như nhận định chắc chắn cô sẽ sinh con trai, mỗi lần hạ lệnh đều sai người chuẩn bị cho "hoàng tử" ra đời, như nói cho đại thần nghe, cũng như nói cho mình nghe. Chỉ là, nếu trời cao không chiều lòng người thì bây giờ có bao nhiêu hi vọng, tương lai sẽ có bấy nhiêu thất vọng. Thân là tần ngự, Thu Hòa cũng được coi là kẻ khác loài, không ham thích tranh sủng cũng chẳng mưu cầu danh lợi, các nương tử khác lo lắng mình không sinh được hoàng tử đa số đều là suy nghĩ cho tiền đồ của bản thân, còn cô thì chỉ đơn thuần là sợ làm trương phu mình thương tâm, dù rằng tình cảm cô dành cho ngài có lẽ chẳng thể gọi là tình yêu.

Thế nên, một tháng sau, khi trong cung lại truyền ra tin tức An Định quận quân Chu thị có hỉ, ta nghĩ Thu Hòa hẳn cảm thấy nhẹ nhõm hơn phần nào. Lúc ta gặp lại cô, khí sắc cô đúng là tốt hơn thật, nụ cười tươi sáng hơn ban đầu rất nhiều.

Hai vị nương tử lần lượt mang thai, khả năng sinh hạ hoàng tử tăng lên, kim thượng càng thêm vui vẻ, liên tục tổ chức mấy bữa tiệc ngự trong cung, đại thần mệnh phụ, cung quyến tông thất đều nối tiếp nhau vào cung chúc mừng.

Trong một buổi yến tiệc, đế hậu giữ công chúa và quốc cữu phu nhân lại, trò chuyện trong nội điện. Vì người có mặt đều là chỗ thân quen nên chủ đề cũng không quá câu nệ, Du sung nghi cười hỏi công chúa: "Công chúa hạ giáng cũng được một năm rồi, chẳng biết bao giờ mới cho quan gia niềm vui nhân đôi, được ôm cháu ngoại đây?"

Công chúa không vui, nhíu mày không đáp, Du sung nghi còn tưởng là nàng xấu hổ, bèn tươi cười quay sang nói với quốc cữu phu nhân: "Nghe nói Tống Tử Thánh Mẫu miếu Ngọc Tiên ngoài thành linh nghiệm lắm, sao không bảo đô úy dẫn công chúa tới đó dâng hương cầu con nối dõi? Nói không chừng giờ này sang năm, quốc cữu phu nhân có thể ôm cháu vào cung được rồi."

Ban nãy nghe Du sung nghi nói vậy với công chúa, sắc mặt Dương phu nhân đã sẵn sa sầm, lúc này nghe lời ấy, lập tức nhếch miệng cười lạnh lùng, trả lời Du sung nghi: "Tống Tử nương nương nào mà linh nghiệm thế không biết, có thể khiến vợ chồng đến ngón tay cũng chưa từng chạm nhau mà vẫn sinh con ra được?"

Câu này vừa nói ra, cung quyến trong điện ngạc nhiên nhìn nhau, Du sung nghi cũng sửng sốt, không nói thêm gì.

Dương phu nhân bị chọc trúng tâm bệnh, liền không nhịn được xả lòng: "Ôm cháu vào cung? Tôi cũng muốn lắm, nhưng một mình phò mã sao sinh được cháu. Phòng ngủ hai vợ chồng cách nhau ba ngàn dặm, sinh được con mới tài đấy! Tống Tử nương nương có linh nghiệm nữa mà người ta căn bản không bằng lòng sinh thì cũng có ích gì..."

Miêu hiền phi thấy tình thế không ổn, vội mở miệng chuyển hướng đề tài: "Quốc cữu phu nhân người ta đã sớm có cháu rồi. Mấy ngày trước chị dâu phò mã còn mang mấy cu nhà mình vào cung kia mà, ta thấy đứa lớn cũng đã mười mấy tuổi, chẳng biết có bổ ấm được chức quan nào không?"

Bà thành công di dời được sự chú ý của Dương phu nhân, bà ta nhanh chóng đổi trọng điểm sang cầu quan thay trưởng tôn: "Mấy ngày trước tôi cũng có nói với con dâu cả rồi đấy, không có việc gì thì dẫn con ra cửa ít thôi, thằng bé cũng đã mười mấy rồi, ra ngoài khó tránh khỏi gặp phải quý nhân, cứ áo vải thường dân mãi thế này sao ổn, xưng là hoàng thân quốc thích chẳng phải là làm mất mặt quan gia sao..."

Buổi tụ hội hôm ấy kết thúc bằng việc kim thượng bằng lòng cho con trai huynh trưởng phò mã Lý Ngọc Chương một chức quan, sau đó, quốc cữu phu nhân về phủ công chúa trước, hoàng hậu giữ công chúa lại, triệu vào buồng trong Nhu Nghi Điện, cũng bảo Miêu hiền phi, Du sung nghi đi cùng, đại khái là muốn hỏi kỹ việc khuê phòng của công chúa.

Một năm nay, cũng không phải là hoàng hậu và Miêu hiền phi chưa từng hỏi công chúa việc vợ chồng, nhưng công chúa một mực bưng miệng không đáp, hỏi Lương đô giám, thầy cũng từ chối thưa mình không tiện tham dự vào việc này, kiến nghị họ hỏi Hàn thị, mà Hàn thị thì một lòng che chở công chúa, thường ngày cũng không vừa mắt Lý Vĩ xoàng xĩnh nên chưa từng báo cho họ biết chân tướng, chỉ úp mở nói mọi việc đều ổn, lấp liếm cho qua.

Thế nên, thông tin Dương phu nhân để lộ lúc này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của họ, gọi công chúa vào buồng nói chuyện riêng hiển nhiên là muốn khuyên bảo nàng.

Ta theo công chúa đến Nhu Nghi Điện, nhưng không vào buồng trong, chỉ đứng trong sảnh ngoài đợi. Khoảng cách xa nên cũng không nghe rõ được mấy vị hậu phi nói gì, nhưng cảm thấy lời họ nhỏ nhẹ liên miên, nghĩ hẳn là đang thay nhau khuyên công chúa chấp nhận phò mã.

Đợi như vậy hơn nửa canh giờ. Thoạt đầu, công chúa không nói một lời, về sau rốt cuộc cũng mở miệng, dùng một giọng oán giận đã nâng cao âm điệu: "Không, ba người đâu phải con, sao có thể hiểu được tâm trạng của con? Cha dẫu không phải hoàng đế thì cũng là một văn sĩ nhã nhặn tuấn tú, thế nên ba người căn bản không thể tưởng tượng được tâm trạng khi con phải đối mặt với một trượng phu tầm thường thô bỉ... Hắn chẳng có gì cả, chỉ có mùi tiền đầy người, cầm tiền cha ban mặc sức tiêu pha, kết giao với phường ngả ngớn nông cạn, muốn học đòi văn vẻ lại không nắm được trọng điểm, lần trước muốn mua thư họa biếu cha và nương nương lại mua về một đống hàng giả, cuối cùng họa tác của Từ Sùng Tự và Quách Hi dâng lên vẫn là do Hoài Cát tìm mua... Nếu phu quân của ba người cũng là một kẻ như vậy, ba người có thể lòng không khúc mắc mà chung phòng với hắn không?"

Thấy nàng kích động, ta hơi kinh ngạc, không khỏi dịch mấy bước về phía buồng trong.

Kế đó là một khoảng lặng thinh, ba vị hậu phi không nói thêm gì. Công chúa bình tĩnh lại đôi chút, nói tiếp, giọng không còn gay gắt như lúc trước, nhưng rõ ràng từng tiếng: "Cha gả con cho hắn là muốn làm rạng rỡ cửa nhà Chương Ý thái hậu, con vào nhà họ là mục đích đạt thành rồi, nhà họ Lý đã thêm một thân phận hoàng thân, Lý Vĩ cũng có thể cả đời an hưởng tôn vinh hàm tước phò mã đô úy đem lại. Con không phải nam tử, không cần gánh trách nhiệm nối dài huyết mạch tôn thất, mà con cũng chẳng hạn chế Lý Vĩ nạp thiếp, hắn muốn có bao nhiêu nữ nhân, sinh bao nhiêu đứa cũng được, việc nối dõi của hắn cũng sẽ không tuyệt đường vì con. Tương lai nếu tì thiếp hắn sinh con, con cũng có thể coi làm con đẻ, xin cha thăng quan tấn tước cho nhà họ... Thế vẫn chưa đủ ư? Sao ba người cứ nhất định bắt con cùng hắn..."

Miêu hiền phi hạ giọng, lại tha thiết nói gì đó với nàng, công chúa vẫn không chịu, chỉ trả lời thế này: "Cái người nói là hạnh phúc ư, tỷ tỷ? Chúng ta không giống nhau. Hạnh phúc của các người có lẽ là được phu quân quan tâm, được chung đụng với người ấy nhiều hơn, nhưng hạnh phúc mà con khẩn cầu được hiện tại cũng chỉ có thể là cái tên đáng ghét kia cách xa con ra một chút, để con được yên thân."

Công chúa kết thúc buổi trò chuyện riêng hôm ấy bằng mấy câu chém đinh chặt sắt đó, về sau mấy vị hậu phi có khuyên nàng thêm vài lần, đều chỉ phí công vô ích. Kim thượng cũng sầu lo, cho gọi Lương đô giám và Hàn thị vào hỏi thăm, nhưng cũng vô kế khả thi, đành bảo Lương đô giám truyền đạt ý mình cho phò mã: Công chúa còn cần khuyên bảo thêm, phò mã nhất định phải nhẫn nại chờ đợi, đừng chọc tức công chúa.

Mặt khác, kim thượng cũng tỏ rõ: Phò mã có thể nạp thiếp.

Dương phu nhân nghe vậy, lập tức một lần nữa lo liệu lấy lẽ cho phò mã, cũng cao giọng tuyên bố đây là phụng chỉ hành sự, chẳng ngờ Lý Vĩ lại không phối hợp, một mực khước từ mỹ nữ mẫu thân mình tìm, đến nhìn cũng không có hứng. Dương phu nhân bực mình, không khỏi lại nói kháy nói mát, rất có thành kiến với công chúa.

Hàn thị nghe mà tức giận. Được công chúa đồng ý, bèn mời Lương đô giám đi khuyên phò mã sớm ngày nạp thiếp. Lương đô giám cũng đi thật, không lâu sau mang về vẫn là tin phò mã cự tuyệt: "Tôi khuyên cậu ấy hồi lâu, cậu ấy chỉ cúi đầu im lặng, sau cùng nói một câu: 'Nếu ta nạp thiếp, vậy ta và công chúa mãi mãi sẽ chỉ có thể như thế này thôi đúng không?'"


3. Ngát hương

Gia Hựu năm thứ tư, mùa hạ đến sớm, mới đầu tháng Tư trời đã rất nực, mặc áo la mỏng đi được mấy bước người đã toát đẫm mồ hôi.

Công chúa thường ra đình hóng mát vào buổi tối, hôm đó lại sai người dời cửa vách ngăn dựng bên giàn trà mi, kê sập mây bên trong, trên sập bày bình phong sơn thủy, giỏ trúc vằn nước và gối sứ trắng lò Định (*) hình em bé, sau đó tự gỡ miện, tháo búi tóc, dùng một cây trâm ngọc bích vấn gọn lại, nằm trên sập nói chuyện phiếm với thị nữ. Thấy nhàm chán, lại gọi tiểu hoàng môn mang bàn cờ song lục (**) tới, dời đến trước sập, bảo thị nữ ngồi xuống đối diện, mình vẫn nằm nghiêng như trước, phe phẩy quạt lụa đánh cờ với thị nữ.

(*) Sứ lò Định là mặt hàng sứ trắng cao cấp trong công nghệ gốm sứ Trung Hoa, chủ yếu được sản xuất ở Định Châu thời xưa, nay là thành phố Bảo Định tỉnh Hà Bắc, rất thịnh hành vào thời Bắc Tống.

(**) Một trò chơi cờ thời cổ đại, bàn cờ hình chữ nhật, trên mặt khắc đường tuyến, chia thành mười hai ô từ trái sang phải, quân cờ chia hai màu đen vàng hoặc đen trắng, mỗi bên mười lăm quân, còn gọi là "mã", đỉnh nhọn đáy bằng, hình dạng như cái chày giặt quần áo, cao chừng 4-5cm. Xúc xắc hai con, chơi hai người, tung xúc xắc đi cờ, mỗi người xuất phát từ ô trong phía bên mình, ai có thể đi hết cờ vào ô trong của đối phương trước thì là người thắng. (chú thích của tác giả)

Đây là trò nàng giỏi nhất trong số những trò đánh cờ, nàng đong đưa quạt lúc có lúc không, hạ cờ rất đỗi thờ ơ, mà đối thủ vẫn liên tiếp thua liểng xiểng. Sau khi Tiếu Diệp Nhi và Vận Quả Nhi lần lượt thất bại, người ngồi đối diện nàng đổi thành Gia Khánh Tử. Tài nghệ của con bé vốn cũng không tệ, nhưng ứng phó vẫn có vẻ tương đối cật lực, thời gian suy tính cũng càng lúc càng lâu, còn công chúa thì từ đầu tới cuối vẫn duy trì trạng thái ung dung, thường thường hạ xong một bước lại thong thả nghiêng người nằm xuống, nhàn nhã ngắm sông Ngân đầy sao, thi thoảng chiếc trâm ngọc bích lại gõ nhẹ lên gối sứ theo động tác trở mình của nàng, phát ra những tiếng giòn tan. Cuối cùng, Gia Khánh Tử không chống đỡ được, đưa mắt nhìn ta cầu cứu, khẽ gọi: "Lương tiên sinh..."

Ta nhoẻn cười với nó, tiếp tục lấy thìa bạc gảy bừng ngọn nến đốt trầm, đậy chụp lưu ly chóp hở chạm hoa lên rồi đi tới sau lưng nó xem thử, lại nhặt một quân mã màu đen trước mặt nó lên, chọn một phương hướng, đếm số theo kết quả tung xúc xắc mới rồi của nó, đi một bước thay nó. Nước đi này chưa khiến công chúa cảnh giác ngay, nàng vẫn hờ hững ứng đối, qua lại hai ba lượt với ta rồi mới dần dần nhìn ra tình thế có biến. Nàng vứt bỏ tư thế nằm thảnh thơi ban nãy, ngồi dậy tỉ mỉ đánh giá bàn cờ, lại đi thêm hai bước, thấy khó có thể vãn hồi được ưu thế ban đầu mới bất mãn oán trách: "Quân tử xem cờ không chỉ nước."

Gia Khánh Tử bật cười: "Công chúa không muốn Lương tiên sinh chỉ điểm em đánh cờ thì sao không nói luôn từ trước?"

Công chúa trừng nó, nói: "Nha đầu chết tiết, em bảo ta sợ huynh ấy đó hả?"

"Dạ, không sợ không sợ, công chúa tất nhiên là không sợ gì rồi!" Gia Khánh Tử cười đứng lên, kéo ta ngồi xuống, "Ván cờ này để tiên sinh hạ tiếp thôi. Nhưng đừng có nhường ai đó đấy nhé, ba chị em chúng em có rửa được nhục hay không là nhờ cả vào tiên sinh đấy."

Ta cười không đáp, thấy công chúa không vui, bèn đề nghị: "Ván cờ này hai người chơi cũng sắp xong rồi, coi như hòa đi, chúng ta mở ván khác."

Công chúa thuận thế gạt xóa bàn cờ, lại nói: "Huynh hạ cờ thì chúng ta phải đặt cược trước đã."

Ta mỉm cười, hỏi: "Thế công chúa muốn đặt cược gì nào?"

"Huynh thua phải vẽ cho ta một cuộn tranh sơn thủy." Công chúa nói đến là nghiêm túc, tiếp tục, "Ta thua, ta cho phép huynh vẽ cho ta một cuộn tranh sơn thủy."

Ta không nín được cả cười: "Hóa ra là công chúa muốn đổi tranh trên bình phong trước gối."

Hiện giờ trên đầu sập của nàng đang dựng một bình phong nhỏ chắn gió trước gối, tranh sơn thủy bên trên vốn là bức họa "Yên thủy viễn loan đồ" của ta, nàng trông thấy đã hỏi xin ta, nào ngờ là để cắt làm bức bình phong chắn gối. Kể từ đó mỗi lần nàng hỏi ta xin tranh ta đều từ chối, bây giờ nàng đặt ra điều khoản ngang ngược này hẳn là cảm thấy đến lúc thay hình vẽ trên bình phong rồi.

Gia Khánh Tử nghe xong cũng che miệng cười: "Tranh Lương tiên sinh vẽ có cất vào Bí các cũng đủ tư cách, đem ra làm bình phong thật phí của quá."

"Em thì biết cái gì? Cất vào Bí các có gì hay?" Công chúa lập tức phản bác,"Cũng chẳng nhìn xem, thư họa cất vào Bí các hằng năm có bao nhiêu mà được ta chọn làm bình phong thì được mấy!"

Hơn mười năm chung đụng sớm chiều đã giúp ta ý thức được sâu sắc rằng đừng hòng nói lý với cô nương này. Sau một phen cò kè mặc cả, cuối cùng ta đề nghị, nếu ta thua sẽ vẽ một bức sơn thủy cho nàng, nhưng nếu nàng thua thì phải trả lại bình phong cho ta.

Nàng miễn cưỡng bằng lòng, rất ư không tình nguyện, cứ như thể phải chịu thiệt hại gì lớn lắm không bằng.

Nàng dốc toàn lực ứng phó ván song lục kế tiếp, ta cũng tập trung đối đáp, ngầm triển khai thế công trong phòng thủ chặt chẽ, không cho nàng bao nhiêu cơ hội. Một nén nhang sau, quá nửa số quân cờ của ta đã đi được vào ô đối phương, thắng lợi trong tầm mắt.

Nàng bắt đầu đứng ngồi không yên, khi thì liếc nhìn giàn hoa, khi thì ngửa đầu trông trời, nhưng lần nào ánh mắt cũng bị tiếng ta hạ cờ dẫn trở lại bàn, nàng vô thức bĩu môi, chân mày cũng nhíu lại.

Sau khi ta hạ xuống nước cờ chủ chốt, nàng vắt óc nghĩ mãi mà không tìm được phương pháp nào hóa giải, mắt thấy thua trận này tới nơi rồi. Đúng lúc ấy Tiếu Diệp Nhi bế con mèo nhỏ qua, mỉm cười quan chiến bên cạnh chúng ta, công chúa thấy mèo, ánh mắt rực sáng, kế đó tủm tỉm bảo ta: "Hoài Cát, sao hôm nay không thấy sao Chức Nữ đâu nhỉ?"

Ta liền ngước mắt nhìn lên, trong sát na không phát hiện ra sao trời có gì khác lạ thì đồng thời cũng hiểu được mục đích của nàng, khóe mắt liếc thấy nàng chỉ tay vào bàn cờ, đang ra sức nháy mắt với Tiếu Diệp Nhi.

Tiếu Diệp Nhi hiểu ý, nhẹ buông tay, ném con mèo nhỏ trong lòng lên bàn cờ. Con mèo quẫy đạp hai cái, quân mã trên bàn cờ tức thì tứ tán, đổ trái ngã phải, hoàn toàn nhìn không ra thế trận ban đầu.

"Ôi chao, con mèo chết tiệt!" Công chúa vừa làm bộ đánh yêu con mèo, vừa liếc bàn cờ bị đảo loạn, đắc ý cười trộm.

"Đáng tiếc quá, ván cờ đang yên đang lành lại không chơi nốt được!" Nàng cố ý thở dài.

Ta cũng thầm cười trong lòng, không thể hiện lên mặt. "Ồ, không sao." ta nói với nàng, "Thần vẫn nhớ bố cục vừa rồi, xếp lại quân cờ như cũ là được."

Thế là, dưới cái nhìn trợn mắt há hốc của nàng, ta nhặt từng quân lên, không nhanh không chậm đặt lại quân mã hai màu về đúng vị trí trước khi bị đảo loạn.

Nàng không nghĩ ra được diệu kế nào khác, đành chơi xấu, thò tay chuyển quân mã ta vừa bày sang chỗ khác: "Quân này rõ ràng ở đây..."

Ta xua tay, lại dời về: "Là ở đây, thần không lừa công chúa đâu."

"Không đúng không đúng!" Nàng ghìm tay ta lại, cưỡng đoạt quân cờ, đặt vào vị trí nàng mong muốn.

Ta nhất thời nổi hứng, cũng tranh giành với nàng, nàng la hét cười ầm ĩ, dứt khoát vươn cả hai tay ra quơ loạn bàn cờ, ta muốn cản nàng, nhưng tay vừa đưa ra đã dẫn tới một kết quả ấm nóng – ta nắm trúng bàn tay trên bàn cờ của nàng.

Ngón tay nàng thon dài trắng mịn, móng tay bóng loáng sắc hoa đào, xúc cảm mềm mại làm tim ta run lên, không khỏi ngước mắt nhìn nàng.

Khi ấy nàng mặc chiếc váy dài quây ngực bằng vải lĩnh thêu mẫu đơn, bên ngoài khoác một tấm áo choàng sắc đỏ không hoa bằng sa mỏng tên gọi "khinh dung", là sản phẩm làm bằng sa khinh dung Giang Nam, nhẹ như sương khói, đường nét vai cổ và cánh tay cũng có thể hiện lên rõ ràng trên lần vải. Áo choàng không buộc dây, hai vạt áo hé mở, để lộ khoảng da quanh xương quai xanh, nõn nà trơn láng, tựa như mỡ đông.

Ánh mắt ta không dám lưu luyến nhiều tại đó, tiếp tục lướt lên trên, lần tới mắt mày nàng duyên dáng.

Khóe miệng nàng ngậm cười, cũng đang chăm chú nhìn ta, bốn mắt chạm nhau, ta trông thấy hoa đèn nến trầm rọi vào con ngươi nàng một đốm lửa rực rỡ, tiếp đó, hai má nàng lặng lẽ ửng lên màu đỏ phớt hây hây như lây nhiễm nhiệt độ hoa đèn.

"Đó, đã bảo rồi, phải là thế này mới đúng." Nàng thoát khỏi khoảnh khắc hai bên cùng thất thần trước, đẩy tay ta ra, bày quân cờ theo ý đồ của mình.

Khói bếp bảng lảng, bình phong man mát, ta thẳng người ngồi ngay ngắn, không tranh cãi nữa, nhìn nàng kéo áo thu mắt, nhìn nàng nói cười thản nhiên, thầm thưởng thức hương thơm ẩn dưới ống tay áo đỏ thẫm này, cúi đầu cam chịu thế cờ nàng bày cho mình.

Thần hồn bay bổng, như lạc trong mơ, thẳng đến khi nghe thấy bọn thị nữ hô gọi: "Đô úy!"

Ta kinh ngạc quay đầu, thấy Lý Vĩ cầm một quyển trục, lặng im đứng cạnh cửa tường hoa.


4. Hoàng nữ

Ta đứng dậy, khom người thi lễ với Lý Vĩ, Lý Vĩ không phản ứng, ánh mắt lướt qua ta nhìn về phía công chúa. Công chúa đã sớm thu lại nụ cười, khẽ cau mày hờ hững nhìn hắn, ám chỉ rất rõ ràng rằng sự có mặt của hắn không được hoan nghênh.

"Có việc gì à?" Công chúa hỏi hắn, giọng lạnh nhạt.

Lý Vĩ cụp mắt, ta để ý thấy bàn tay nắm quyển trục của hắn hơi siết lại, song chung quy vẫn không nói gì liên quan tới nó, chỉ trả lời câu hỏi của công chúa như sau: "Không có... Ta chỉ, đi ngang qua đây..."

Đến lời nể mặt khách sáo cho có lệ công chúa cũng chẳng buồn nói, trực tiếp hạ lệnh đuổi khách: "Không có gì thì về nghỉ ngơi sớm đi."

Lý Vĩ chưa đi ngay, đứng tại chỗ bất động một chốc rồi mới lặng lẽ vái chào tạm biệt công chúa, xoay người rời đi.

Nhìn bóng hình hắn biến mất, công chúa thở phào một hơi, lúc nhìn lại sang ta, nét mặt đã rạng ngời trở lại: "Nào nào, chúng ta chơi cờ tiếp đi!"

Hẳn Lý Vĩ đến là để tìm công chúa, ta nghĩ.

Một năm qua, hắn nghiên cứu thư họa đã có chút thành tựu, ta cũng giới thiệu hắn với Thôi Bạch, thi thoảng hắn sẽ đi tìm Thôi Bạch thỉnh giáo về hội họa, đôi khi họa gia trong kinh tụ tập mở hội nhã, hắn cũng sẽ đi dự thính – theo lời Thôi Bạch, Lý Vĩ rất ít mở lời trong những buổi tụ hội ấy, thường chỉ ngồi trong một góc, lẳng lặng lắng nghe mọi người đàm đạo thảo luận – hôm nay, có lẽ hắn mua được một bức thư họa đẹp hoặc tự mình vẽ một bức, định mời công chúa chỉ giáo, song thái độ cự tuyệt ra ngoài ngàn dặm của công chúa đã khiến mong muốn ban đầu của hắn tiêu biến.

Điều này làm ta cảm thấy rất áy náy với hắn, nhất là khi nghĩ chẳng biết tâm trạng hắn ra sao lúc chứng kiến ta nắm tay công chúa.

Hôm sau, ta đi tìm hắn, khi ấy hắn đang ở một mình trong thư phòng, ta gõ cửa đi vào, thấy hắn ngồi bên bàn sách, liếc ta một cái rồi dời mắt đi, vẫn không nói một lời.

Vốn định giải thích chuyện hôm qua đánh cờ với công chúa, nhưng lời đến khóe miệng lại nấn ná chần chừ. Đắn đo mấy bận, ta ghìm xuống không nói, chỉ hỏi hắn: "Tối qua tôi thấy trong tay đô úy có cầm một quyển trục, là danh tác thư họa mới mua được gần đây à? Chẳng biết có thể đưa sang mời công chúa cùng thưởng thức hay chăng?"

Hắn nhạt nhẽo đáp hai chữ: "Không phải." rồi lại là một khoảng im lặng.

Ta đưa mắt nhìn chung quanh, phát hiện ra quyển trục hắn mang theo tối qua đang đặt trên bàn sách, bèn đi tới, nhẹ nhàng cầm lên định mở ra.

Trước nay hắn đối xử với ta cũng khá tôn trọng, thường hỏi ta vài vấn đề về thư họa, thậm chí đôi lúc còn cho ta xem tác phẩm của mình, nhờ ta cho ý kiến, thế nên động tác ta cầm quyển trục của hắn lên xem tương đối tự nhiên, ta cũng không nhận ra có gì không ổn.

Nhưng vừa mở được chút ít, tranh đã bị hắn đoạt lại. Hai tay hắn xé mạnh, bức tranh rách toạc, hắn tiếp tục hùng hổ xé thêm mấy cái, phá hủy hoàn toàn bức họa, rồi ném tất thảy bao gồm cả trục giữ tranh vào sọt rác.

Qua những mảnh vụn tranh thoáng liếc ra được trong quá trình ấy, có thể thấy đây vốn là một bức thủy mặc vẽ trúc. Tranh trúc thủy mặc là đề tài công chúa thường vẽ, mà nét mực bức họa Lý Vĩ xé bỏ hãy còn rất mới, hẳn là tác phẩm gần đây của chính hắn.

Mặt Lý Vĩ đỏ gay, thở phì phò, thể hiện sự tức giận hiếm thấy của bản thân với ta, nhưng hắn vẫn không trực tiếp phát tiết với ta nỗi bất mãn của mình, thậm chí, trước sau vẫn dõi mắt sang nơi khác, không đối mặt cùng ta.

Ta không phải người giỏi ăn nói, nhất thời cũng khó tìm được câu chữ gì có thể dập tắt lửa giận của hắn, chỉ yên lặng cụp mắt đứng đó, lại vô ý phát hiện ra trong sọt rác ngoài bức tranh hắn xé bỏ mới rồi còn có rất nhiều những mảnh giấy vụn khác, hình vẽ bên trên cũng đều là các loại hình dáng khác nhau của trúc thủy mặc.

Hắn ắt đã phải vẽ đi vẽ lại rất lâu mới rút ra được một bức tương đối hài lòng, tối qua cố ý mang theo, muốn mời công chúa xem.

Ta càng thêm thẫn thờ, chỉ cảm thấy tình thế phát triển nằm ngoài khả năng dự liệu và khống chế của mình, đứng trong đó quả thực tiến thoái lưỡng nan.

Chớp mắt ngắn ngủi kế tiếp như kéo dài đằng đẵng, ta và Lý Vĩ đều lặng thinh, mỗi người một phương, vẫn duy trì tư thế bất động, nhìn ánh nắng trên chấn song hết sáng lại tối theo mặt trời lấp ló giữa trời mây.

Cuối cùng, người hóa giải sự lúng túng này là nội thị Ngự dược viện đến phủ báo tin. Dưới sự dẫn đường của người hầu trong phủ, hắn một đường rảo bước, tiến vào nói với chúng ta: "Sáng sớm hôm nay, Văn Hỉ quân quân đã sinh hạ một công chúa."

Tất cả mọi người đều biết kim thượng nhất định rất thất vọng, nhưng ngài vẫn gắng hết sức không thể hiện sự thất vọng này ra. Lúc công chúa dẫn theo ta vào cung gặp ngài, ngài đang tự mình bế cửu công chúa, vui cười ngắm nghía, trong mắt đầy ắp yêu thương.

"Huy Nhu," Ngài hồ hởi gọi công chúa qua xem đứa con gái nhỏ của mình, "Cửu muội muội của con giống con hồi bé phết đấy."

Những thể thức lễ nghi chuẩn bị đón hoàng tử cũng không vì công chúa mà thay đổi. Hoàng đế Đại Tống có con cái ra đời sẽ ban thưởng quà lễ tiền bạc cho đại thần, gọi là tiền "bao tử", mà lần này để đón cửu công chúa giáng sinh, kim thượng tuyên bố ăn mừng ba ngày, số lượng tiền bao tử ban tặng hạ thần phong phú gấp bội trong quá khứ, những món lễ vật này đều làm từ chất liệu quý giá như vàng bạc, sừng tê giác, ngà voi, ngọc đá, hổ phách, đồi mồi, đàn hương, còn đúc vàng bạc thành hình hoa quả, tể tướng, từ thần và đài gián đều được nhận lễ thưởng này.

Ân sủng kim thượng dành cho Thu Hòa cũng chẳng mảy may suy giảm, một ngày đến thăm cô mấy bận, liên tục thể hiện sự yêu thích của mình đối với cửu công chúa, song Thu Hòa thì lại càng buồn khổ hơn, thường trộm ngài rơi lệ, thế nên lần nào vào gặp, ta cũng thấy hai mắt cô sưng đỏ.

Kim thượng cũng cảm nhận được tâm trạng của cô, còn lén bảo công chúa: "Con vào cung trò chuyện với Thu Hòa nhiều nhiều chút, nói cho nàng biết, cha và con đều rất thích cô em gái này."

Để tiến thêm một bức chứng minh sự coi trọng của ngài đối với cô con gái mới, ngài thậm chí còn quyết định đại xá thiên hạ y như khi hạ sinh hoàng tử, thanh lý mọi phán quyết cho phạm nhân đang bị giam giữ trong kinh, phạm nhân từ tử tội trở xuống hạ một bậc, từ tù tội trở xuống được phóng thích, dùng ơn trạch ấy cầu phúc cho công chúa.

Hơn nữa, năm ngoái sau khi biết tin Thu Hòa có thai, kim thượng đã từng hạ lệnh giảm án cho tù phạm, đây là lần thi ân thứ hai. Tri chế cáo Lưu Thưởng tuy không phải ngôn quan nhưng cũng không nhịn được mà nêu ý kiến về việc này: "Thanh lý phán quyết cho phạm nhân trong kinh tuy là ban ân nhất thời song bên ngoài đều nói, bởi hoàng nữ giáng sinh nên mới có lần thi ân chúc mừng này... Đại xá hai lần trong một năm, tội tù chịu ơn, người tốt mất tiếng, minh quân hiền thần đời trước đã coi hành động này là tệ nạn, thần kính xin triều đình ngăn cấm. Lại nghe tiền bao tử ban thưởng hạ thần đều làm bằng của báu, thần cho là lãng phí vô ích, ban thưởng vô cớ, quá mức tai hại, phô trương xa xỉ, đi ngược lại với đạo tiết kiệm răn dạy xưa nay. Bệ hạ cần minh xác chính lệnh, thắt chặt cung kiệm, lấy đó báo đáp trời cao, xây dựng nền tảng muôn cõi. Không nên thi ân nuông chiều mà làm tổn hại đến chính thể, gây ra những phí tổn dư thừa, làm suy đồi đức tiết kiệm."

Lời can gián của Lưu Thưởng chẳng thể thay đổi được quyết định của kim thượng, có điều, một tháng sau, khi An Định quận quân hạ sinh thập công chúa, kim thượng không còn thi ân như vậy nữa.

Tất nhiên, đối với chính Thu Hòa, ngài lại càng không quên ban thưởng. Mấy năm gần đây, ngài muốn sinh hoàng tự nên đã tinh tuyển mười nữ tử trẻ tuổi bổ sung vào hậu cung, gọi là "Thập Các", Thu Hòa, An Định quận quân và Thanh Hà quận quân đều nằm trong số đó. Mỗi người thuộc Thập Các đều được cung cấp cung nhân, nội thị, đề cử quan và tiền tiêu rất sung túc, nhưng phong hiệu của họ đều chỉ là quận quân, huyện quân, nhiều năm qua chưa từng thăng vị.

Một ngày nọ, Miêu hiền phi và công chúa đến thăm Thu Hòa, vài vị thuộc Thập Các cũng có mặt khi đó, đợi kim thượng tiến vào, Miêu nương tử hỏi ngài đã nghĩ xong chuyện thăng Thu Hòa lên danh vị gì chưa, ngài mỉm cười nói: "Vừa phân phó rồi, bảo từ thần viết sắc chỉ, thăng Thu Hòa lên mỹ nhân."

Thu Hòa nghe thấy tức khắc vùng dậy hạ bái, nói: "Thiếp xuất thân hàn vi, được bệ hạ quan tâm, hạ sinh công chúa, đã là rất may mắn rồi. Huống hồ bệ hạ yêu thương cửu công chúa, đã ban thưởng hậu hĩnh, lại thanh lý phán quyết cho tù tội cầu phúc cho nó, mẹ con thần thiếp chịu ơn đã quá sâu nặng, nếu bệ hạ lại thăng vị cho thiếp, để thiếp vượt cấp làm mỹ nhân, đối với thiếp chỉ sợ là hành động giảm phúc. Ý tốt của bệ hạ, thần thiếp vô cùng cảm động, nhưng dẫu thế nào cũng không dám tiếp nhận, kính xin bệ hạ thu hồi mệnh lệnh đã ban."


5. Thập Các

Kim thượng đỡ Thu Hòa dậy, nói: "Nàng bên ta đã nhiều năm, phẩm cấp thấp bé nhưng luôn kính cẩn hiền thục, huống hồ bây giờ còn nuôi nấng công chúa, thăng vị là lẽ đương nhiên, đừng từ chối."

Thu Hòa lại nói: "Thiếp phúc bạc, chỉ đẻ được con gái, không sinh được hoàng tự, sao dám tranh công thăng vị? Mỹ nhân đứng hàng tứ phẩm, cấp bậc cao, là dành cho người có tài có đức đảm nhiệm. Thiếp thuộc Thập Các, bổng lộc chi tiêu không chỗ nào không đủ, thật không dám lấn lướt nhảy vọt lên tận đấy."

Kim thượng ngẫm nghĩ, nói với cô: "Nếu nàng thấy đột ngột thăng lên mỹ nhân không thỏa đáng, vậy ta thăng nàng lên quý nhân trước có được không? Quý nhân đứng hàng ngũ phẩm trong nội mệnh phụ, tấn bậc có thứ tự, cũng sẽ không làm người khác chê trách."

Thu Hòa xua tay như còn muốn chối từ, nương tử Thập Các đứng xem người nào người nấy đều lên tiếng, khuyên cô ưng thuận tấn bậc, Bành Thành huyện quân Lưu thị trong đó còn nửa đùa nửa thật nói thẳng: "Tỷ tỷ, chị em ta hầu hạ quan gia đã nhiều năm song vẫn chỉ là đám ngự thị không có phẩm cấp, thường ngày tham dự tiệc rượu trong cung cũng chẳng mảy may một vị trí nghiêm chỉnh. Bây giờ tỷ tỷ tốt số, hạ sinh công chúa trước, chúng tỷ muội đều rất vui mừng, chỉ mong thơm lây của tỷ tỷ và tiểu công chúa được chút nào. Tỷ tỷ thăng vị, bọn em tốt xấu gì cũng có thể thuận theo xin lấy một chức tài tử, quý nhân mà làm. Mà tỷ tỷ lại cứ khăng khăng từ chối, sinh công chúa cũng không chịu tấn bậc thế này thì cái đám vô phúc bọn em đây cũng chỉ đành tiếp tục không danh không vị cùng tỷ tỷ mà thôi, chẳng biết đến năm nao tháng nào mới có ngày cất đầu lên được."

Lời cô ả quả thực cũng đúng thực tế. Tần ngự hậu cung thăng vị cần phải được Trung thư đồng ý, nếu Thu Hòa sinh hạ công chúa mà chưa tấn bậc thì những nương tử còn lại muốn vượt cô tiến cấp tất sẽ bị Trung thư bác bỏ.

Thu Hòa bị lời ấy chặn họng, đành thôi không kiên quyết từ chối nữa. Vì vậy, kim thượng thăng cô lên làm quý nhân, đồng thời ban chức cho cha cô, phong làm nội điện sùng ban (*).

(*) Một chức võ quan thất phẩm.

Sau khi An Định quận quân sinh hạ thập công chúa, kim thượng cũng thăng vị theo lệ, bởi phong hiệu của cô vốn cao hơn Thu Hòa một bậc nên theo thứ tự phong thưởng, cô được thăng lên làm mỹ nhân.

Trong bữa tiệc đầy tháng của cửu công chúa, những nương tử Thập Các còn lại nhắc lại về việc "thơm lây" tấn cấp, kim thượng lắc đầu: "Tần ngự quốc triều thăng vị, nếu không có con cái nhờ ơn thì phải có đức hạnh thiện mỹ. Bây giờ các nàng tự xin thăng vị, lại không có điển cố gì, triều đình ắt sẽ không phê chuẩn."

Bành Thành huyện quân bèn cười nói: "Quan gia là hoàng đế, thánh nhân, lời ra khỏi miệng chính là sắc chỉ, hễ có một câu của quan gia, hoàng mệnh hạ xuống, ai dám làm trái không theo?"

Kim thượng cũng cười: "Nàng không tin? Được, thử tạm một lần xem sao." Sau đó quay sang Nhậm Thủ Trung bên cạnh, "Các tướng công còn ở Trung thư chứ?"

Nhậm Thủ Trung khom người đáp: "Vẫn đang nghị sự trong Trung thư ạ."

Kim thượng gật đầu, ra lệnh: "Lấy giấy bút lại đây, ta viết ý chỉ, ngươi sai người giao cho Phú tướng công."

Nội thần dâng giấy bút, kim thượng vung bút viết ý chỉ, sai người đưa tới Trung thư môn hạ. Lát sau, nội thị trở về, hai tay dâng trả ý chỉ: "Phú tướng công nói, nương tử Thập Các chỉ có Đổng quý nhân và Chu mỹ nhân sinh hạ công chúa, những nương tử còn lại đều không có lý do thăng tấn, Trung thư không dám lĩnh mệnh hạ sắc."

Nương tử Thập Các nhìn nhau, kim thượng cả cười, nói: "Sao nào? Giờ đã tin chưa?"

Miêu hiền phi cũng cười nói với chư nương tử: "Các em còn trẻ, không biết then chốt trong đây. Quan gia hiền hòa chiều hư đám quan lại trong triều mất rồi, bây giờ tính tình họ kiêu lắm. Nhất là nhóm tướng công trong Trung thư, bắt đầu từ hồi Đỗ tướng công nhậm chức, quan gia muốn thăng ai, mười người đến chín đều bị họ bác bỏ."

Bành Thành huyện quân vẫn chưa hết hi vọng, sóng mắt dập dềnh đánh sang kim thượng, sẵng giọng: "Chiếu lệnh của hoàng đế đâu nhất thiết cần phải qua Trung thư tuyên bố mới thi hành được? Không phải còn có nội giáng thủ chiếu (*) sao? Nếu quan gia ngự bút thảo chiếu, thăng vị cho chúng thiếp, đợi đến lúc phát bổng lộc tháng, chúng thiếp cầm ngự bảo đi lĩnh, chẳng lẽ còn không được?"

(*) Nội giáng là chiếu lệnh không qua các tỉnh Trung thư nghị định theo thường lệ mà trực tiếp hạ xuống từ trong cung, thủ chiếu là mệnh lệnh hoàng đế tự tay viết, bình thường vua không tự viết chiếu mà chỉ hạ ý chỉ cho người khác viết thay nên sắc chỉ ngự bút đóng dấu ngự bảo thường có ý nghĩa đặc biệt.

Kim thượng cười thở dài, muốn giải thích, lại bị công chúa ngăn cản. Công chúa vừa nháy mắt với ngài, vừa mỉm cười cố ý khuyên ngài: "Cha, quan viên trong triều còn có kiểu thăng chức nhờ thưởng công theo thời gian kia mà. Nhóm Lưu nương tử phụng dưỡng cha nhiều năm như vậy, quả tình cũng nên được tấn cấp. Cha ngự bút thảo chiếu, thăng vị cho họ, để họ đường đường chính chính được tăng bổng lộc thì có làm sao đâu?"

Kim thượng hiểu ý, thuận thế bằng lòng, bảo người mang giấy bút tới, hỏi Bành Thành huyện quân trước: "Lưu nương tử muốn thăng lên chức nào đây?"

Bành Thành huyện quân mừng rơn, đáp ngay: "Đổng tỷ tỷ chỉ làm quý nhân, thiếp cũng không dám vượt trên ngũ phẩm, quan gia thăng thiếp lên tài tử là được rồi."

Kim thượng cười, thật sự cầm bút viết: "Phong ngự thị Bành Thành huyện quân Lưu thị làm tài tử."

Bành Thành huyện quân vội cười tạ ân, sung sướng nhận ngự bút, xem đi xem lại. Những nương tử Thập Các còn lại chưa được tấn bậc lập tức cùng nhao nhao tiến lên, vây lấy kim thượng xin ngự bảo, kim thượng cũng bằng lòng, viết cho từng người một. Chỉ duy Thanh Hà quận quân là ngồi yên tại chỗ, không xin thủ chiếu theo mọi người.

Hoàng hậu thấy thế, cười hỏi quận quân: "Sao Trương nương tử không xin quan gia hạ ngự bút?"

Thanh Hà quận quân khom người thưa: "Bổng lộc quận quân thiếp dùng hãy còn dư, có nhiều hơn nữa cũng vô dụng, hà cớ lại xin quan gia thăng chức tăng lộc?"

Đảo mắt đã đến ngày cung nhân lĩnh bổng lộc tháng. Hôm ấy công chúa đi thăm Thu Hòa, thấy trời trong nắng ấm, bèn mời cô ra Hậu uyển ngắm hoa. Kim thượng hạ triều xong cũng qua đây, tán gẫu với hai cô gái. Lát sau, chợt thấy Bành Thành huyện quân dẫn đầu nhóm nương tử trẻ tuổi nối nhau chạy tới, ai nấy đều tay cầm ngự bảo, nhíu mày bĩu môi, không lấy gì làm vui vẻ.

"Quan gia," Bành Thành huyện quân giơ thủ chiếu lên, mách với kim thượng, "Ban nãy thiếp sai người cho quan viên phát bổng lộc xem ngự bút, bảo hắn đưa thiếp bổng lộc tháng của tài tử, ai ngờ hắn lại kiên quyết cự tuyệt, nói không phải sắc chỉ Trung thự hạ, hắn không dám tuân lệnh, chỉ có thể trả về."

Các nương tử còn lại cũng ríu rít kể việc mình gặp phải, về cơ bản đều giống Bành Thành huyện quân, lấy ngự bút ra xin tăng lộc bị từ chối. Thấy kim thượng chẳng có vẻ gì là kinh ngạc nổi nóng, Bành Thành huyện quân càng thêm tức tối, nửa hờn nửa giận xé thủ chiếu ra làm hai, còn ném xuống đất hai chân giẫm đạp, căm phẫn nói: "Thì ra là vô dụng!"

Chư nương tử nhao nhao hùa theo, ai nấy đều hủy ngự bút xin được, vụn giấy rách tán loạn khắp đất.

Kim thượng cũng không cáu giận, cười ha hả nói: "Ta đã bảo vô cớ thăng vị quan lại trên triều ắt sẽ không đồng ý rồi mà, các nàng lại không tin, cứ phải thế này mới chịu hết hi vọng. Chuyện này vẫn chưa xong đâu, các nàng chờ tiếp xem, không quá ba ngày tất sẽ có ngôn quan dâng tấu luận về việc này."

Quả thế. Hai ngày sau, đồng tri gián viện Phạm Sư Đạo dâng tấu nói: "Trộm nghe chư ngự thị Thập Các lấy cớ Chu, Đổng sinh hạ công chúa được thăng vị, xin ngự bút định suông, cũng thăng làm tài tử, không phải cáo chỉ do Trung thư hạ, mà chốn tiêu phòng ngấp nghé thăng vị có rất nhiều. Chu, Đổng được thăng là chính đáng, những ngự thị này lại dựa vào đâu mà tấn bậc? Phẩm cấp tài tử sẵn cao, từ cổ đã có biên chế, thời Đường chỉ được bảy người, Tổ Tông bản triều quy định ngự thị tiêu phòng không quá hai, ba trăm, số người ngũ phẩm không có mấy. Nếu chư các đều thăng, nhân số này sẽ bị phá vỡ, người ngoài không tường, sẽ cho là bệ hạ sủng hạnh thái quá, không tiết chế ơn trạch. Nữ tử tính như tiểu nhân, sủng hạnh thái quá sẽ sinh lòng ngạo mạn, không tiết chế ơn trạch sẽ dẫn đến oán hờn vô cớ, không thể cai quản bằng biện pháp này. Lại chi tiêu quá nhiều, đòi hỏi quá lắm, bổng lộc tài tử bằng thuế thu trăm nhà trung lưu một tháng, ấy là còn chưa tính ban thưởng hằng năm. Huống hồ cáo mệnh hạ xuống chẳng qua quan lại, đương buổi thịnh há lại dung việc như thế..."

"Sủng hạnh thái quá sẽ sinh lòng ngạo mạn, không tiết chế ơn trạch sẽ dẫn đến oán hờn vô cớ", những lời này xem chừng có hàm ý, mà biểu hiện của Bành Thành huyện quân cũng gợi lên sự chú ý đặc biệt của Ngự sử đài. Không lâu sau, ngự sử trung thừa Hàn Giáng tra ra Bành Thành huyện quân từng lén lút thông đồng với phản tặc, mật cáo lên kim thượng, kim thượng lập tức nghiêm tra cung nhân Thập Các, nhặt ra những kẻ xấc xược, không kính cẩn khác, trục xuất khỏi cung cùng Bành Thành huyện quân, giáng xuống làm nữ đạo sĩ, hoặc buộc họ xuống tóc làm ni cô. Về phần Thanh Hà quận quân, sau khi được hoàng hậu cất nhắc, Trung thư tán thành, đã được thăng lên làm tài tử.

Chuyện này cũng một lần nữa khiến người trong hậu cung được chứng kiến uy lực của đài gián, Miêu hiền phi cảm thán một phen cảnh ngộ Thập Các gặp phải, lại bảo riêng công chúa, đài gián là đôi mắt thứ hai của quan gia, nói câu này đại bất kính chứ, có lúc chẳng khác nào cha ngài, bắt được sai lầm là tóm riệt không tha, nhất định phải xử lý theo ý họ mới xong. Họ quản rất rộng, từ quốc sự đến chuyện nhà hoàng đế đều đòi nhúng tay vào, họ cũng sẽ treo gươm trên đầu con, con ở bên ngoài phải cẩn thận mọi bề, chớ để họ có lời, đừng để thanh gươm ấy rơi xuống.


6. Nguyên Tiêu

Cuối năm luôn là thời điểm bận rộn nhất, ta phải phụ trách việc thu nhận và đưa tặng lễ vật của phủ công chúa cùng sự vụ xã giao qua lại với đại nội cấm cung và tôn thất ngoại thích, bận thẳng đến sau tết Nguyên Tiêu mới được ngơi tay. Ngày mười tám tháng Giêng năm Gia Hựu thứ năm, lễ lạt kết thúc, công chúa cũng từ trong cung trở về, bấy giờ ta mới rút ra được một ngày đi bái phỏng mấy người bạn cũ trong kinh như Thôi Bạch.

Buổi tối trở lại phủ, như thường lệ đến chỗ công chúa vấn án, lại thấy cửa phòng nàng đóng kín, đèn vẫn sáng, song bên trong tĩnh mịch im lìm.

Ta gõ khẽ vài cái lên cửa, nghe tiếng Gia Khánh Tử từ trong vọng ra: "Công chúa đã an giấc, có việc gì để mai hẵng quay lại bẩm báo."

Giờ mới qua bữa tối, theo lý công chúa sẽ không ngủ sớm vậy, ta bèn đứng ngoài cửa cất lời: "Là ta."

Cửa lập tức mở ra, xuất hiện trước mặt ta là Gia KhánhTử, mà trong phòng thì không thấy bóng dáng công chúa đâu.

Gia Khánh Tử mời ta vào trong, khép cửa lại rồi mới nhỏ nhẹ thưa: "Công chúa vẫn luôn muốn ra đường ngắm đèn, bữa nay sau khi trời tối đã thay quần áo của em, đội mũ quây, bảo Trương Thừa Chiếu lén dẫn ra ngoài rồi."

Ta nhíu mày, song cũng không có cảm giác gì quá bất ngờ. Hằng năm từ mồng một đến Nguyên Tiêu, đèn hoa rực rỡ rọi phượng thành, du khách kinh sư như mắc cửi, cảnh tượng tột cùng những thái bình thịnh vượng. Nhiều năm nay công chúa vẫn luôn muốn đích thân ra phố, trải nghiệm chợ đèn hoa tưng bừng, nay tuy đã ra ngoài cung ở nhưng có Lương đô tri giám sát, nàng cũng chẳng thể muốn gì làm nấy, tự tiện rời khỏi phủ công chúa. Nàng từng năn nỉ Lương đô tri rất nhiều lần, đều bị thầy lấy cung quy ra bác bỏ, nàng cũng từng xin ta lén mang nàng ra, ta cũng không đồng ý, thế nên, nhất định là nàng thấy hôm nay ta không có trong phủ, mới nhân cơ hội thay đổi trang dung, bảo Trương Thừa Chiếu dẫn mình ra ngoài.

"Người đi đâu ngắm đèn?" Ta hỏi Gia Khánh Tử.

Con bé cũng chẳng giấu giếm: "Trương Thừa Chiếu nói với công chúa, phường Cảnh Minh ngoài Đông Hoa Môn có một tửu điếm tên là Bạch Phàn Lâu, đồ ăn thức uống trong đó ngon nhất kinh thành, lầu cao đến mấy tầng, lên lầu ngắm đèn cũng thuận tiện. Hôm nay công chúa chưa ăn tối, bây giờ chắc hẳn là sẽ vào đó."

Ta cảm ơn nó, lập tức ra cửa, giương roi thúc ngựa, chạy tới phường Cảnh Minh.

Bạch Phàn Lâu là tửu lâu danh tiếng nhất Đông Kinh, rèm châu hoành gấm, xưa nay bất kể nóng lạnh mưa gió, ban ngày đêm khuya, vẫn luôn là nơi tụ tập yến ẩm của quý nhân đế đô. Tới nơi, ta ghìm ngựa lên lầu, tìm khắp ba tầng vẫn không thấy công chúa đâu. Chẳng biết phải làm sao, ta bèn ra bao lơn tầng cao nhất, tựa vào lan can dõi mắt ra xa.

Hôm nay là ngày cuối cùng giăng đèn Nguyên Tiêu, hai bên đường lớn đèn đuốc sáng rỡ, có đèn sa tơ lụa bình thường, có đèn lưu ly ngũ sắc vẽ hình người non nước, hoa trúc lông vũ, có đèn bạch ngọc tựa bình ngọc băng xanh, có cả núi đèn màu cao đến vài trượng, gắn cơ quan chuyển động. Thương gia mỗi bên một sáng kiến, đua nhau chăng đèn trưng trên nóc lầu, mà trên đường cái cây ngọc nhà ngà, ngựa xe như nước, cũng không thiếu nữ tử quyền quý ra phố ngắm đèn, bánh son khung chạm, yên hoa cương ngọc, trong xe rèm buông hương ủ, kẻ hầu trước ngựa tay xách cầu hương, xe lướt qua, khói hương tựa mây, vấn vít mấy dặm.

Tầm mắt ta vượt qua hương sắc năm đêm, vọng về sân mừng dưới đèn màu trước Tuyên Đức Lâu ở hướng tây nam. Nơi ấy đan dây gai làm rào, bên trong có nghệ nhân diễn tạp kỹ, bên ngoài là du khách vây xem, bao gồm không ít quý nữ đi ra từ xe hương ngựa báu.

Hiện giờ, biểu diễn trong sân là hai đô vật nữ vạm vỡ không thua gì đô vật nam, họ mặc áo lót ngắn tay không cổ, ngực để trần một khoảng lớn, đá, quẳng, khiêng, đỡ, vật lộn với nhau trong tiếng hò reo khen hay của người xem. Chốc sau, thắng bại đã phân, người thắng lượn quanh sân một vòng cảm ơn khán giả, khán giả cũng sôi nổi lấy tài vật ra thưởng cho thị. Rất nhanh, hai tay đô vật chiến thắng đã ôm đầy tiền thưởng trang sức, đang định trở về giữa sân thì bỗng có một cô gái bước ra gọi thị lại.

Ngay sau đó, cô gái cất tiếng dấn lên mấy bước bắt kịp, đặt một xâu tiền vào lòng đô vật trước rồi lại duyên dáng cười tươi cắm một đóa hỏa dương mai lên búi tóc thị.

Cô gái ấy đội mũ quây, vành mũ rủ lụa trắng thật dài, nhìn từ lầu cao xuống tương đối bắt mắt, ta tập trung nhìn kỹ, nhận ra được xiêm y nàng mặc chính là của Gia Khánh Tử, bèn lập tức xoay người xuống lầu, lại cưỡi ngựa phi về phía vị trí nàng đứng.

Sau màn đấu vật, trong sân mừng bắt đầu đốt pháo hoa pháo bông, từng cụm hoa lửa trắng bạc bung nở giữa bầu trời đêm, trăm ngàn đốm lửa cánh hoa lả tả rơi xuống như mưa phùn. Công chúa vén màn sa trước mũ ra sau đầu, ngửa mặt cảm nhận ánh sáng lay động quanh mình. Lúc ta chạy tới bên cạnh nàng, nàng như có cảm ứng, thong thả nghiêng đầu, không hoảng không cáu, mỉm cười nhìn ta trong quang ảnh loang loáng: "Hoài Cát, huynh đến rồi."

Ta tiến lên cúi người hành lễ, dè chừng người đi đường xung quanh nên cũng không tiện mở miệng gọi nàng, chỉ nhẹ nhàng dẫn nàng rời khỏi đám đông, lại trợn mắt trừng Trương Thừa Chiếu bám gót ngay sau.

Trương Thừa Chiếu rất giỏi quan sát, không đợi ta mở lời quở trách đã xá ta một vái dài: "Chính chủ đến rồi, việc của tiểu nhân đã hết, xin phép được cáo từ."

Ta cũng lười quản hắn, nói khẽ với công chúa: "Chúng ta về thôi, muộn nữa, để Lương đô tri phát hiện ra thì không hay."

Công chúa làm như không nghe thấy, chỉ cười bảo: "Hoài Cát, ta đói."

Ta nói với nàng: "Trong phủ đã chuẩn bị xong cao lương mỹ vị rồi."

"Ta muốn nếm thử đồ ăn bánh trái của Bạch Phàn Lâu."

"Chúng ta về trước đã, rồi thần sẽ sai người đến đó mua."

"Ta muốn ngắm đèn tiếp."

"Trong phủ cũng có rất nhiều đèn hoa mà."

"Nhưng ta muốn ngồi trên Bạch Phàn Lâu, vừa ăn bánh trái nơi đó vừa ngắm đèn dưới lầu cơ."

Ta không tiếp lời.

Nàng lại thở dài: "Bây giờ mà về với huynh, chẳng biết năm nào mới lại được ngắm nhìn pháo hoa nhân gian chốn này."

Vẻ buồn bã chán nản của nàng làm tim ta mềm xuống, quyết định dung túng nàng thêm một lần.

Ta kéo lại màn sa sau đầu che mặt cho nàng, sau đó mang nàng đi tới Bạch Phàn Lâu.

Tới trước lầu, lúc sắp vào cửa, bước chân nàng chợt chậm lại, liên tục ngoái ra sau. Ta quay đầu nhìn nơi nàng ghé mắt, trông thấy một cô bé ngồi bên đường bán những món trang sức Nguyên Tiêu như náo nga, tuyết liễu, ngọc mai, bồ đề diệp, đăng cầu (*). Những món nữ trang này cắm trên một cọc cỏ bện, được cô bé yếu ớt gánh trên vai, mà quần áo cô bé thì mỏng manh, mặt và tay nứt nẻ tấy đỏ, dáng vẻ đói rét như mệt mỏi khôn thấu, ánh mắt dại đờ, run rẩy trong gió đêm.

(*) Những món này cùng hỏa dương mai nhắc tới bên trên đều là trang sức gắn lên miện của con gái Đại Tống du ngoạn tết Nguyên Tiêu: hỏa dương mai là táo chín giã nát vo thành viên, xuyên thành chuỗi vào que sắt, nướng trên lửa, có hình dạng và màu sắc như quả dương mai, cắm trên đầu làm trang sức; náo nga là thoa cài đầu hình hoa bướm làm bằng tơ lụa hoặc giấy dát vàng; ngọc mai là hoa giả làm bằng lụa hoặc giấy; tuyết liễu là nữ trang làm từ chỉ vàng vê thành tua rua; bồ đề diệp là trang sức bằng lụa, giấy cắt thành hình lá bồ đề; đăng cầu là quả cầu nhung to chừng quả táo tàu. (chú thích của tác giả)

"Con bé có vẻ lạnh lắm mà sao không về nhà vậy?"

Ta đáp: "Chắc là bởi vì chưa bán hết hàng."

Nữ trang cô bé bán tuy nhiều nhưng chất liệu không tốt, chế tác cũng chẳng quá tinh xảo, không có ưu thế nào giữa rừng hàng hóa cùng loại của những gánh hàng rong xung quanh, xem chừng không thể bán xong trong nhất thời nửa khắc.

Nghe ta nói vậy, công chúa đi thẳng tới chỗ cô bé kia, hỏi em: "Bán những món này của em cho ta đi, hết bao tiền?"

Tiểu cô nương trợn tròn hai mắt, nhìn công chúa không sao tin nổi, mãi một lúc lâu sau mới lắp bắp báo ra một cái giá.

Công chúa tức khắc chìa tay về phía ta: "Hoài Cát, đưa tiền đây."

Ta mỉm cười lấy túi gấm đựng tiền ra, định lấy đủ số tiền trả cho cô bé kia, công chúa lại không chịu đợi ta đếm xong, chộp cả tiền cả túi gấm lại, dúi vào tay tiểu cô nương, cười bảo: "Cho em cả đấy, mau về nhà đi."

Cô bé mừng rơn, đứng dậy hướng công chúa vái lấy vái để, cảm tạ không ngớt miệng. Công chúa dịu dàng cười với em, thấy trên đầu em vấn hai búi tóc, lại không có trang sức gì, bèn trở tay gỡ chiếc lược ngọc vân rồng cài trên búi tóc của mình xuống, tự tay cắm lên mái đầu cô bé.

Tiểu cô nương hết lòng cảm kích không lời nào kể xiết, đứng đờ ra một lúc lâu, rưng rưng gỡ toàn bộ trang sức cắm trên cọc rơm đưa cho ta.

Ta cười, nói: "Không cần đưa cho tôi đâu, em mang về cả đi thôi."

Cô bé không ưng thuận, khăng khăng nhét vào lòng ta, rồi lại cảm ơn công chúa liên hồi, bấy giờ mới chịu từ từ lui đi.

Mà ta lúc này nom cái cọc trong tay lại thành ra phát sầu, cười nói với công chúa: "Thần mà cầm một đống đồ thế này, bồi bàn tửu lâu sẽ không cho thần vào đâu."

Công chúa cười chọn lấy vài món trên cọc, cắm từng cái lên khăn chít đầu của ta, rồi tháo mũ quây của mình xuống, bảo ta lựa mấy cái náo nga tuyết liễu cài lên búi tóc cho nàng, song vẫn còn dư lại rất nhiều. Công chúa nhìn chằm chằm một chốc, lại gỡ xuống dăm món, thấy có quý nữ nào đi qua là chạy tới tặng cho người đó, những cô gái ấy tuy đều lấy làm kinh ngạc nhưng sau cùng vẫn mỉm cười tiếp nhận, không bao lâu sau, tất thảy nữ trang đã hết nhẵn.

"Được rồi," Công chúa bỏ cái cọc rơm trụi lủi vào góc đường, phủi tay nói, "Chúng ta vào được rồi."

Ta lại nghĩ tới một chuyện khác, chưa dời bước ngay mà hỏi nàng: "Đi đâu ạ?"

Nàng ngạc nhiên nhìn ta, nhất định là cảm thấy ta chóng quên quá đỗi: "Bạch Phàn Lâu đó."

"Ồ, nhưng bây giờ có một vấn đề." Ta nhắc nhở nàng, "Công chúa còn tiền không?"

"Hả?" Nàng sửng sốt, "Ban nãy ta cho đô vật hết tiền rồi..."

"Huynh thì sao?" Nàng hỏi ngược lại ta.

Ta cay mày với nàng, giũ giũ hai tay áo trống không: "Tiền của thần không phải đã bị công chúa cướp hết rồi sao?"

Nàng cúi đầu, lát sau lại ngẩng lên nhìn ta, dạt dào trông mong hỏi: "Ngoài tiền ra, tửu lâu có nhận thứ khác không? Ta vẫn còn trang sức."

"Hay là về đi thôi." Ta kéo nàng ra ngoài, "Người ta đâu phải hiệu cầm đồ."

Nàng không biết phải làm sao, đành đi theo ta, nhưng mỗi bước một ngoảnh đầu ngó Bạch Phàn Lâu phía sau, dáng vẻ rất chi bịn rịn quyến luyến.

Song, chưa tới chỗ buộc ngựa thì chợt nghe có người gọi hai ta: "Lang quân và tiểu nương tử phía trước ơi, xin hãy dừng bước."

Chúng ta đứng lại quay đầu nhìn, thấy người đuổi tới là một cô nương mặc trang phục thị nữ. Cô gái rảo bước tới trước mặt bọn ta, xách váy hành lễ rồi nói: "Phu nhân nhà tôi trên Bạch Phàn Lâu chứng kiến hai vị làm việc thiện, rất lấy làm kính phục, có ý muốn mời hai vị lên uống trà, chẳng biết lang quân và tiểu nương tử có bằng lòng nể mặt?"

Ta còn đang do dự, công chúa đã nở nụ cười với cô gái: "Vậy thì đa tạ, thỉnh cầu cô nương dẫn đường."

Cô thị nữ dẫn hai ta lên thẳng tầng hai, vào một căn phòng thanh nhã gọn gàng, bài trí trong phòng từ dụng cụ đến ly chén đều là vật thượng hạng, phòng chia làm hai gian, mỗi gian đặt một bàn, ở giữa có mành che ngăn cách, một vị phu nhân trẻ tuổi ngồi trong phòng, thấy chúng ta đi vào lập tức đứng dậy, rất lễ độ thi lễ chào hai ta.

Ban nãy nghe thị nữ kính cẩn gọi cô là phu nhân, mà cô lại ngồi ở một trong những gian phòng nhã thượng đẳng của Bạch Phàn Lâu thế này nên nguyên bản, ta đoán là một vị phu nhân tuổi tầm trung niên trở lên, chẳng ngờ cô lại trẻ trung vậy, xem chừng không quá hai mươi, tuổi tác xấp xỉ công chúa.

Tuy cách bức mành che, song vẫn có thể thấy được dung nhan cô. Gương mặt cô khuôn trăng đầy đặn, da dẻ láng mịn, mắt hạnh xinh xắn, nụ cười cong cong vành trăng khuyết, có vẻ rất dễ thân. Cô bận áo tay rộng màu liễu, sắc điệu mộc mạc, làm nổi bật nước da trắng ngần. Màu sắc xiêm y tuy không phô trương song chất liệu thượng thừa, hẳn là gấm Thục, viền cổ áo thêu hoa văn tứ hợp như ý vô cùng tinh xảo, đằng sau chiếc miện phỉ thúy đội trên đầu cắm lược sừng tê giác trắng, qua đó có thể thấy thân phận cô bất phàm, hẳn là dòng dõi nhà quan.

Ta và công chúa cũng thi lễ đáp lại cô, cô lập tức mời hai ta ngồi xuống ngoài rèm, khách khí thăm hỏi đôi câu rồi lại hỏi bọn ta muốn gọi món gì, công chúa nói muốn thưởng thức vài món bánh trái theo mùa, vị phu nhân bèn nhỏ giọng dặn dò thị nữ. Thị nữ ra ngoài truyền lời, một lát sau, có người tiến lên bày thức ăn, trám nếp, quýt xanh, cam Vĩnh Gia, hạt dẻ Hoa Tu, đu đủ sấy sợi, cỏ mầm hương bồ, từng đĩa từng đĩa đủ các loại bánh trái chua mặn, lại thêm một bát canh bột đậu, bánh trôi mặn làm bằng gạo nếp và canh chao thịt, quả nhiên đều là những món ăn dịp tết Nguyên Tiêu.

Cách chế biến những món này có chút bất đồng so với đồ ăn trong cung, công chúa cũng không nhiều lời khước từ, rửa tay cùng ta xong liền ngồi xuống, vui vẻ chuẩn bị thưởng thức. Ta bèn theo thói quen xưa nay, chạm mu bàn tay vào mép bát, thử nhiệt độ canh cho nàng trước, thấy nóng, bèn lấy một cây quạt ra quạt gió thổi nguội, rồi lại múc chút ít ra thử độ mặn nhạt, cảm thấy không có vấn đề gì mới đưa cả bát đến trước mặt nàng. Đợi công chúa nếm được một hai viên bánh trôi, uống xong một bát canh bột đậu, ta lại thuận tay bóc một quả quýt xanh, gỡ hết xơ trên thịt quả ra rồi đưa cho công chúa.

Vị phu nhân kia ngồi trong rèm quan sát suốt cả quá trình, bấy giờ mới cầm lòng không đậu cảm thán, nói với công chúa: "Tỷ tỷ, phu quân chị chăm sóc chị chu đáo quá."

Hằng ngày ở phủ công chúa, không phải lúc nào ta cũng mặc công phục, hôm nay cũng chỉ bận một tấm áo dài văn sĩ thông thường màu trắng, thế nên cô không nhận ra thân phận nội thần của ta, cho rằng ta là phu quân công chúa, mới cảm khái như vậy.

Ta quýnh lên, lại không tiện giải thích, chỉ đành cúi đầu im lặng. Công chúa cũng chẳng nóng lòng biện bạch, trái lại còn cười đáp: "Huynh ấy lúc nào cũng vậy đấy... Phu quân tỷ tỷ chắc cũng như thế với chị?"

"Hắn?" Vị phu nhân kia cười nhạt, giọng điệu nhuốm vẻ hờn giận: "Hắn mà tốt với tôi bằng được một nửa thế này thì tôi đã chẳng lẻ loi ngồi đây một mình rồi."

"Tỷ tỷ ra ngoài một mình?" Công chúa ngạc nhiên, "Tôi còn tưởng là chị ở đây chờ phu quân đến cùng thưởng rượu ngắm đèn chứ."

Vị phu nhân kia nhăn mày: "Đừng nhắc đến nữa. Hôm nay hắn chọc bực tôi, trong cơn nóng giận tôi xông ra ngoài, thực ra tốc độ đi khỏi nhà cũng chẳng nhanh, ấy thế mà hắn không buồn đuổi theo... Cho nên tôi dứt khoát lên xe tới đây, phái người đi truyền tin cho một vị tỷ muội khuê phòng, mời chị ấy đến đây trò chuyện đôi lát, nhưng đợi mãi vẫn chưa thấy chị ấy tới, may mà gặp được tỷ tỷ, bằng không... Tôi sập cửa ngồi đây bức bối đến phát ngốt lên rồi."


7. A Địch

Vị phu nhân thầm nghiến răng, có phần tức tối, lúc nhắc đến trượng phu, dáng vẻ hết sức u oán, công chúa xem mà cười rộ: "Tỷ tỷ nhất định là rất thích phu quân mình."

Vị phu nhân "hứ" một tiếng: "Thích gì chứ! Trước đây trẻ người non dạ, nghe cha mẹ nói hắn tốt nên cứ thế mơ mơ hồ hồ xuất giá, giờ nhớ lại hối hận chết đi được."

"Vậy trước khi xuất giá, chị đã gặp anh nhà lần nào chưa?" Công chúa hỏi.

Vị phu nhân gật đầu, cụp mắt ra chiều suy tư, một nụ cười ngượng ngùng bất đồ he hé nở bên má, nhưng rất nhanh sau đó cô lại mím môi, giấu đi.

Công chúa cười nói: "Phu quân tỷ tỷ hẳn là dung mạo tuấn tú, học vấn cũng không tệ." Dụng tâm quan sát phục trang của vị phu nhân một hồi, nàng suy luận tiếp: "Chức quan trên tứ phẩm."

Vị phu nhân ngạc nhiên: "Sao tỷ tỷ..." Lời còn chưa dứt đã thấy không thỏa đáng, bèn thẹn thùng nuốt chữ "biết" xuống.

Công chúa nói cô hay: "Lúc tỷ tỷ nhắc đến cảnh tượng nhìn thấy phu quân thời còn con gái, sắc mặt vui mừng, tất nhiên là dung mạo huynh ấy rất vừa lòng chị. Người thời nay tôn sùng kẻ đọc sách, nếu học vấn huynh ấy không tốt, cha mẹ chị quá nửa sẽ không cho là huynh ấy tốt, cũng sẽ không khăng khăng bắt chị lấy huynh ấy. Mà tỷ tỷ tuy ăn bận thanh nhã, song quanh thân không chỗ nào không phải tinh phẩm, xin thứ cho muội muội vô lễ nói thẳng, anh rể mà là lang quân áo xanh mới trúng cử thì chỉ sợ bổng lộc chẳng đủ mà mua gấm Thục lược ngà cho tỷ tỷ. Huống hồ anh rể hiện đang ở kinh thành, tất là điều ra ngoài đã được hồi kinh, khẳng định làm quan đã nhiều năm. Thị nữ tỷ tỷ lại gọi tỷ tỷ là phu nhân, chứng tỏ tỷ tỷ rất có thể đã nhận được cáo phong (*) , thế nên tôi mới cả gan suy đoán, bậc quan của anh rể ắt phải trên tứ phẩm."

(*) Viết tắt của "cáo mệnh phong thưởng", chỉ việc ban tước vị danh hiệu cho thê thất quan viên trong triều đình.

Vị phu nhân kia kinh ngạc đi ra khỏi mành, nắm hai tay công chúa tỉ mỉ đánh giá, nói: "Chị đã hiểu biết về những điều này tất không phải người phàm tục, hẳn cũng xuất thân từ nhà công khanh phải không?"

"Ở hoàng thành mấy năm tự nhiên sẽ biết được những việc này thôi." Công chúa khẽ cười, cũng không trả lời rõ ràng câu hỏi của cô, kéo phu nhân ngồi xuống bên mình, lại nói, "Tỷ tỷ quanh thân khí phái, xuất thân chắc chắn hiển quý, lại tìm được lang quân như ý, thật khiến người ta ngưỡng mộ."

Vị phu nhân kia xua tay, bất mãn nói: "Nào đâu mà như ý? Nếu như ý, sao còn sinh ra lắm cơn cáu kỉnh thế này?"

Công chúa cười hỏi: "Có thể lấy người mình thích, lại chẳng như ý ư?"

Vị phu nhân đỏ mặt phủ nhận: "Ai bảo tôi thích hắn?"

Công chúa tắt cười, thất vọng than thở: "Nếu chị không thích huynh ấy thì đến một cái liếc mắt cũng chẳng buồn cho huynh ấy ấy chứ, đời nào còn tâm tư mà cáu giận với huynh ấy làm chi?"

Nghe vậy, vị phu nhân kia ngẩn người trầm mặc chốc lát, sau đó nghiêng đầu ngó ta, cười với công chúa: "Chị còn nói là ngưỡng mộ tôi? Tôi mới là người phải ngưỡng mộ chị đây! Phu quân chị cử chỉ nhã nhặn, mắt mày có phong độ văn nhân mặc khách, tương lai nhất định cũng sẽ là nhân vật làm bạn với ngôi cao, vả lại... Lúc huynh ấy nhìn chị, chị để ý ánh mắt huynh ấy mà xem, chuyên chú như vậy, cứ như thiên địa vạn vật chỉ còn lại mình chị thôi ấy."

Cô bộc trực nói thế ngay trước mặt ta làm ta luống cuống chân tay, xấu hổ vô cùng. Ta lúng túng hơi xoay người ngồi thẳng, mặt nhìn ra ngoài cửa sổ, tránh khỏi ánh mắt dò xét sau đó của cô và công chúa.

Đầu cổ ta giờ khắc này nóng rực, hẳn là mặt đã đỏ tới tận gốc cổ, làm vị phu nhân kia trông mà bật cười nho nhỏ, lại thấp giọng thì thầm gì đó với công chúa, công chúa cũng không khỏi khẽ cười, nhưng ngưng lại rất nhanh, đổi chủ đề trò chuyện: "Sao hôm nay không thấy tỷ tỷ đeo món náo nga tuyết liễu hay bồ đề diệp nào?"

Phu nhân đáp: "Đã cáu ai kia trong nhà rồi thì còn tâm trạng đâu mà đeo mấy món đó nữa?"

Công chúa cười: "Tôi thấy tâm trạng tỷ tỷ bây giờ tốt lên rồi, nếu không chê mấy kiểu dáng trên đầu tôi thô kệch, tôi tặng mấy cái cho tỷ tỷ đeo có được không?"

Vị phu nhân vui vẻ tiếp nhận, cười bảo được. Thế là công chúa tháo ngay đám náo nga tuyết liễu trên đầu xuống, cài từng cái lên miện phu nhân. Phu nhân thấy trên búi tóc nàng không có lược trang sức, cũng hào phóng gỡ chiếc lược ngà của mình xuống gắn cho nàng, hai người điểm trang cho nhau, nói cười không dứt, nom như bạn chốn khuê phòng quen biết đã lâu.

Đúng lúc này, nghe dưới lầu có xe bò lại gần. Lát sau, một thị nữ lên lầu bẩm báo: "Trương phu nhân đến rồi ạ."

Vị phu nhân kia lập tức đứng dậy ra cửa đón. Ta đoán vị Trương phu nhân này chính là tỷ muội mà phu nhân trẻ tuổi đây đang đợi, bèn song song đứng dậy cùng công chúa, chờ Trương phu nhân vào.

Vị phu nhân tiến vào niên kỷ lớn hơn nhiều, khoảng ngoài ba mươi, ăn vận trắng thuần, toàn thân cao thấp cũng không có món trang sức nào có thể gọi là châu báu, song dáng vẻ đoan trang, thùy mị nhã nhặn, hẳn cũng xuất thân dòng dõi thư hương.

Chị chậm rãi bước vào, còn dắt theo một đứa trẻ tuổi chừng năm, sáu.

Phu nhân trong phòng nhác thấy chị tức thì thi lễ, gọi chị là "Trương tỷ tỷ". Trương phu nhân hoàn lễ ngay sau, dịu dàng gọi "Nhược Trúc", hẳn là khuê danh của vị phu nhân trẻ tuổi kia.

Sau đó, Nhược Trúc giới thiệu sơ lược với chúng ta Trương phu nhân là chị em kết nghĩa của mình, rồi quay sang Trương phu nhân nói công chúa là bằng hữu mới quen, ta là phu quân của công chúa, nhưng thân phận tên tuổi ra sao thì cô không biết nên cũng không nhiều lời.

Đôi bên thi lễ. Trương phu nhân nhìn công chúa, bỗng mỉm cười nói: "Vị tiểu nương tử này quen mắt quá, hình như đã gặp ở đâu rồi thì phải."

Ta thầm cảm thấy không ổn. Xem dung mạo phong thái và tuổi tác của vị phu nhân này, hiển nhiên là mệnh phụ có thể thường xuyên vào cung tham dự yến hội, tuy không phải phu nhân tể chấp có thể ngồi cùng cung quyến, nhưng từng trông thấy công chúa từ xa cũng vô cùng có khả năng.

Công chúa lại chẳng hoảng hốt chút nào, cười nhẹ thong dong đáp: "Thế ạ? Cũng có nhiều người nói vậy lắm rồi. Em nghĩ, có phải dung mạo em tương tự một quý phu nhân nào đó hay chăng, hoặc là gương mặt em thiếu đặc sắc quá nên ai ai cũng cảm thấy từng gặp ở đâu đó rồi."

Người nghe cười rộ, cũng không truy cứu đến cùng vấn đề này, sau đó Nhược Trúc mời chúng ta vào sảnh nhập tọa.

Ngồi xuống rồi, hai vị phu nhân hãy còn đang hàn huyên, ánh mắt công chúa thì lại bị đứa bé kia hấp dẫn, thì thầm với ta: "Đứa bé này đáng yêu quá, dung mạo còn xinh xắn hơn cả Trọng Minh nữa."

Đứa bé búi tóc trái đào, mặt mày đẹp đẽ, ánh mắt lanh lợi, da dẻ nõn nà trắng trẻo, có mấy lọn tóc bện cùng tơ màu thành những bím nho nhỏ, buông rủ cùng phần tóc còn lại dài chấm vai, là kiểu tóc của nữ hài, khuôn miệng nhỏ nhắn chúm chím cười nhìn Nhược Trúc cũng là thần thái của bé gái, nhưng thân lại bận y phục con trai.

Sau nữa, Nhược Trúc cũng để ý tới đứa trẻ, hỏi Trương phu nhân: "Đứa bé này cứ như ngọc tạc ấy nhỉ, là con nhà tỷ tỷ ạ?"

"Ta cũng muốn có một đứa như thế lắm, đáng tiếc là không có phúc ấy." Trương phu nhân cũng cười, lại giải thích, "Đây là con gái tri chế cáo Bàng Đạm học sĩ, tên là A Địch. Bàng học sĩ là bạn tốt lâu năm của anh rể em, ta lại quen biết Tiêu phu nhân nhà huynh ấy từ nhỏ, hôm nay họ dắt con tới nhà ta làm khách, ta nhận được thư của em rồi cũng không tiện đi ngay, thế nên lần lữa mất một lúc. Anh rể em ngồi đàm đạo với Bàng học sĩ, A Địch chạy tới bên cạnh nghe. Anh rể em thì em biết rồi đấy, thấy con bé mặc y phục nam hài là chướng mắt, nhăn nhăn nhó nhó, muốn nói lại thôi. Ta sợ lão ấy lại nói câu gì không xuôi tai, vội vàng cáo lỗi, tìm cớ mang A Địch ra cửa, nói với mẹ nó là thuận tiện mang nó ra ngắm đèn hoa, lát nữa sẽ đưa về, thế nên nó theo ta tới đây."

Nhược Trúc xoa đầu A Địch, cười hỏi nó: "Người lớn ngồi đàm đạo mà con cũng thấy hứng thú à, nghe có hiểu không?"

A Địch ngoan ngoãn ngồi yên, chỉ cười không đáp, Trương phu nhân bên cạnh lại bảo: "Em chớ có xem thường nó, nó bây giờ tuy mới chỉ năm tuổi nhưng Bàng học sĩ vẫn luôn dạy dỗ nó như con trai, tứ thư ngũ kinh cũng thuộc được không ít rồi đấy."

Nhược Trúc càng thêm hiếu kỳ, lại hỏi A Địch: "Thế hôm nay họ đàm đạo gì thế?"

A Địch ngẩng đầu, chớp mắt, khóe miệng nhoẻn một nụ cười ngời ngời: "Tư Mã bá bá nói, nữ tử đô vật ăn mặc quá phong phanh, đáng thẹn, đáng thẹn, không ra thể thống gì, muốn xin quan gia cấm họ biểu diễn trên đường."


8. Mờ mịt

Giọng A Địch non nớt mềm mại, nói câu này nghe đến là ngây thơ, làm công chúa và Nhược Trúc đều không nhịn được bật cười.

Nhược Trúc tiếp lời: "Chơi trò ấy tất nhiên là phải ăn mặc thoải mái chút mới dễ hoạt động, chẳng lẽ lại bắt họ mặc áo dài tay rộng, bọc mình kín mít mà đấm đấm đá đá sao?"

Công chúa cũng cười: "Đó là tiết mục tạp kỹ tết Nguyên Tiêu hằng năm, lúc quan gia giá lâm Tuyên Đức Môn ngắm đèn cũng thích xem, có thấy ngài ý kiến gì về trang phục của những phụ nhân này đâu."

Bốn chữ "Tư Mã bá bá" vừa ra khỏi miệng A Địch, ta đã đoán được ngay vị tiên sinh ấy có thể là Tư Mã Quang học sĩ ta từng có duyên gặp mặt một lần, bởi y hiền danh lan xa nên người đời đều biết y phẩm đức cao thượng, coi trọng lễ pháp, nghe lời Trương phu nhân và A Địch tự thuật cũng rất phù hợp với tính tình y, vả lại trong ấn tượng của ta, quan viên trong kinh hiện tại cũng chỉ có mình y mang họ Tư Mã. Mà ngay sau đó, suy đoán này cũng được câu tiếp theo của Trương phu nhân chứng thực.

"Ôi, cũng chính vì quan gia không ý kiến gì nên Quân Thực mới lắm ý kiến thế đấy chứ." Trương phu nhân cười bất đắc dĩ. Quân Thực chính là tên tự của Tư Mã Quang.

Trương phu nhân giải thích thêm: "Chàng nói với Bàng học sĩ, Tuyên Đức Môn là biểu tượng quốc gia, là nơi ban bố pháp lệnh, thể hiện tôn nghiêm của nước nhà. Lúc ngắm đèn Nguyên Tiêu, trên có thiên tử chí tôn, dưới có vạn dân chi chúng, hậu phi hầu hạ bên cạnh, mệnh phụ theo dõi chung quanh, để đám phụ nhân bán khỏa này nô đùa trước Tuyên Đức Môn thì còn gì là lễ pháp long trọng, thị uy tứ phương? Sau này nhất định phải dâng sớ luận việc này, xin quan gia cấm tiệt tiết mục ấy."

Công chúa không đồng ý: "Em lại cảm thấy tiết mục này rất hay, nữ tử có thể so tài như nam tử, không như trước đây, chỉ có thể tô son điểm phấn loay hoay với đàn sáo dây ống, hoặc làm ca cơ vũ nữ mua vui cho người. Hoạt động như thế có mặc ít một chút cũng không ảnh hưởng đến toàn cục, lại nói, nam tử để trần cánh tay diễn tạp kỹ trước Tuyên Đức Môn có đầy ra đấy, cớ gì nữ nhân lộ nhiều một tấc da thịt thì lại không được?"

Nhược Trúc cười: "May mà chị không biết ông anh rể này của em, chứ nói câu này trước mặt huynh ấy, chẳng biết huynh ấy sẽ mắng chị thế nào."

Công chúa không vui, muốn phản bác tiếp, ta vội lén giật tay áo nàng, ngăn nàng lại, công chúa cũng không nói thêm nữa, chỉ hỏi A Địch: "Thế cha con có tán thành ý kiến của Tư Mã bá bá không?"

A Địch lắc đầu, mỉm cười đáp: "Tư Mã bá bá muốn cha con khuyên quan gia cùng mình, cha con chỉ cười, không đáp ứng, sau đó Tư Mã bá bá không vui, trông thấy con lại càng tức giận hơn..."

Công chúa và Nhược Trúc nhìn nhau cười, Trương phu nhân cũng cười than thở, đổi chủ đề: "Chúng mình đừng động tới con mọt sách này nữa. Nhược Trúc, nói về em đi. Làm gì mà cáu đến vậy, một mình chạy tới nơi này?"

Nhược Trúc chần chờ, không trả lời ngay. Ta nghĩ chắc là cô kiêng dè hai ta, không tiện kể chuyện trong nhà với tỷ muội, bèn nhẹ giọng nói với công chúa: "Không còn sớm nữa, chúng ta cũng nên cáo từ thôi."

Công chúa "ờ" một tiếng, giọng chẳng mấy vui vẻ, cũng không đứng lên ngay. Đại khái Nhược Trúc cũng nhìn ra công chúa rất có hứng thú với chuyện của mình, nghĩ ngợi một hồi, cuối cùng nắm tay công chúa, nói: "Tỷ tỷ đừng đi. Hiếm khi nào gặp được ai hợp ý như tỷ tỷ, em kể lại hết tủi nhục hôm nay cho tỷ tỷ nghe vậy." lại quay sang ta, nói, "Lang quân cũng đừng ngại nghe xem, tương lai chớ phạm vào sai lầm như phu quân tôi."

Lệnh thị nữ dọn thức ăn thừa xuống, đun nước châm trà, Nhược Trúc nghiêng người bắt đầu kể với Trương phu nhân: "Bởi quan hệ với cha em nên phu quân em vốn không tiện làm quan kinh thành, cũng đã ra ngoài nhậm chức mấy năm, nhưng gần đây quan gia bỏ ngoài tai cha em phản đối, cho vời hắn về, bổ hắn vào Hàn uyển làm học sĩ. Em lấy làm lạ, trở về hỏi cha nguyên nhân, cha lại không chịu nói với em. Mãi đến hôm qua, em theo mẹ sang nhà ông ngoại chúc tết, nói chuyện phiếm với chị em dì mợ bên ấy, họ mới nói cho em biết, hai năm nay Âu Dương nội hàn phải kiêm chức đảm đương cả phủ Khai Phong, sự vụ Hàn uyển không quản lý được bao nhiêu, huống hồ năm ngoái y lại bận hặc tội Bao Chửng, quan gia cảm thấy Hàn uyển thiếu người, bèn vội vã điều phu quân em về."

Chuyện năm ngoái Âu Dương Tu hặc Bao Chửng mà cô đề cập đến ầm ĩ rất lớn, ta cũng nghe kể được đôi phần. Nguyên nhân là quyền ngự sử trung thừa Bao Chửng suất lĩnh quan viên Ngự sử đài hặc tam ty sứ Trương Phương Bình, tố y tắc trách, cuối cùng làm Trương Phương Bình mất chức. Sau đó kim thượng bổ Tống Kỳ đảm nhiệm chức tam ty sứ, Bao Chửng lại bảo không được, hặc tiếp Tống Kỳ, buộc kim thượng điều Tống Kỳ ra ngoài. Kim thượng buồn cười: Ông thấy người này không được, người kia cũng không được, hay là tự ông làm đi thôi! Ngòi bút vung lên, ý chỉ viết xuống: Phong quyền ngự sử trung thừa Bao Chửng làm toàn tam ty sứ.

Hoàng mệnh hạ xuống, Âu Dương Tu giận dữ, lập tức dâng sớ hặc Bao Chửng, dày đặc ngàn lời, tố Báo Chửng "thiên tư ngay thẳng, song vốn thiếu học vấn", "giẫm ruộng đoạt trâu (*), há lại vô tội", "tố tội người ta mà như xoi mói, đuổi chỗ người ta mà như hãm hại... Nay Chửng đuổi hai thần, tự thế mình vào chỗ họ, giúp kẻ gian nịnh tương lai có cớ lừa dối quân chủ; từ rày về sau lời gián ngôn chẳng còn đáng tin, không rõ minh bạch"... Tấu chương vừa dâng, Bao Chửng cũng đứng ngồi không yên, trốn trong nhà không nhận bổ nhiệm. Song, mặc cho Âu Dương Tu khuyên can thế nào, kim thượng cũng không đổi mệnh lệnh, một mực khăng khăng, Bao Chửng chỉ đành nhậm chức.

(*) Thành ngữ xuất xứ từ một tích trong "Tả truyện – Tuyên công thập nhất niên": Người nông dân vì bị trâu nhà khác giẫm nhầm vào đất ruộng mình nên cướp lấy trâu, chỉ tội nhẹ phạt nặng để mưu lợi cho mình.

Quốc triều thi hành chính sách tị hiềm thân tịch, bình thường thân quyến của trọng thần tể chấp không thể cũng nhậm chức trọng yếu, thậm chí còn không thể đồng thời làm quan trong kinh. Một trong những lí do Bao Chửng hặc Tống Kỳ chính là anh Kỳ Tống Tường đã chấp chính nên y không thể nhậm chức tam ty sứ. Mà nghe ý của Nhược Trúc, có vẻ như phụ thân cô cũng là trọng thần triều đình, thế nên chồng cô không tiện làm quan trong kinh, bị điều ra ngoài vài năm. Có điều, gần đây ta ít khi hỏi thăm chuyện Hàn uyển nên cũng không biết gần đây có vị nào làm quan quận ngoài được vời về nhậm chức nội hàn.

"Thì ra phu quân tỷ tỷ là nội hàn, quả nhiên ta đoán không sai mà!" Công chúa đắc ý vỗ tay cười.

Quan giai của hàn lâm học sĩ đứng hàng chính tam phẩm, suy đoán của công chúa trước đó về phẩm cấp của phu quân Nhược Trúc hoàn toàn chính xác.

Trương phu nhân nghe vậy cười: "Phu nhân cô này cao thâm lắm, đỗ đạt mười năm đã làm đến nội hàn, quốc triều trước nay cũng chẳng có mấy người."

"Ồ?" Công chúa tò mò truy vấn, "Thế huynh ấy là..."

"Hắn chỉ là được thánh thượng gia ân, lượm được của hời đó thôi." Nhược Trúc hời hợt nói, cũng không vội nói ra danh tính chồng mình mà kể tiếp chuyện nhà, "Sau, nữ quyến nhà ngoại em thảo luận chuyện Âu Dương nội hàn và Bao Chửng ai đúng ai sai, đa số đều cảm thấy Bao Chửng hặc Tống Kỳ thực ra cũng không sai, ngoài việc đáng ra phải tị hiềm Tống Tường chấp chính ra thì Tống Kỳ cũng đúng như lời Bao Chửng nói, ham tiệc tùng yến ẩm, xa hoa thái quá, mà tam ty sứ lại quản lý tài chính quốc gia, không nên để người như vậy đảm nhiệm. Sau đó, họ bắt đầu nói đến những chuyện về Tiểu Tống lưu truyền trong triều, trong đó có một chuyện rất thú vị: Tiểu Tống có rất nhiều tì thiếp, trong khoảng thời gian y tri Thành Đô Phủ, một ngày nọ bày tiệc bên bờ Cẩm Giang, rượu uống được một nửa thì đột nhiên cảm thấy gió quá lớn, hơi lạnh, bèn phái người về nhà lấy một tấm áo tay lửng cho y mặc. Kết quả, tên hầu kia trở về phủ vừa nói chuyện này ra, cả bầy oanh yến đã lập tức chạy về phòng, ai nấy đều lấy một tấm áo tay lửng dúi cho hắn. Tên hầu mang hết đi đưa, Tiểu Tống nhìn thấy, trợn tròn mắt há hốc – tổng cộng những mười mấy tấm kia mà! Y mờ mịt nhìn nửa ngày, cảm thấy chọn của ai cũng không ổn, thế nào cũng có cảm giác nặng bên này nhẹ bên kia, thế là không dám lựa mặc, cuối cùng cố chịu lạnh mà về."

Cô kể tới đây, công chúa nâng tay áo che miệng, trộm cười, Trương phu nhân và ta cũng buồn cười theo. Nhược Trúc trông thấy, lại bảo: "Buồn cười lắm đúng không? Em cũng thấy thú vị, thế nên hôm nay về đến nhà, em mới kể lại cho ai kia. Lúc hắn nghe đến Tiểu Tống mờ mịt nhìn áo tay lửng, cũng phá ra cười ha hả đến là vui vẻ. Thế nên kể xong, em mới thuận thế hỏi hắn: 'Nếu nguyên phối của chàng và chị thiếp đều còn tại thế, ba người bọn thiếp mỗi người may cho chàng một tấm áo bông, cùng tặng chàng, vậy chàng sẽ mặc của ai?' Hỏi vậy, hắn nhất thời cũng 'mờ mịt', ngẫm nghĩ một lúc mới trả lời: 'Ta mặc cả hết vậy, dù sao mùa đông năm nay cũng lạnh.' Đời nào em chịu để hắn bịp bợm cho qua, bèn truy vấn: 'Vậy chàng sẽ mặc của người nào trước? Mặc của ai trong cùng?' Hắn ấp úng không đáp, em hỏi đi hỏi lại, hắn mới lẩm bẩm: 'Thì dù sao cũng phải có trước có sau chứ đúng không, mặc theo thứ tự cưới các nàng đi...'"

Trương phu nhân cười hỏi: "Em tức giận vì chuyện này?"

Nhược Trúc cau mày: "Lúc đó em nghe xong quả thực cũng không vui, nhưng đây chưa phải cái đáng giận nhất đâu... Em tỉnh rụi hỏi lại hắn: 'Nếu ba người bọn thiếp chia nhau ở trong phòng mình, sau đó cả ba căn phòng đều bốc cháy, vậy chàng sẽ cứu ai trước?' Hắn hết nhìn trời lại nhìn đất, lề mề hồi lâu mới đáp: 'Nàng cho ta cứu Vương tỷ tỷ của nàng và Nhược Lan trước đi, sức khỏe họ không tốt... Ta cam đoan cứu họ ra xong sẽ cứu nàng ngay.'"

Công chúa không nhịn được nữa, bật cười nắc nẻ, Trương phu nhân ngậm cười xua tay: "Cậu ấy cũng ngay thẳng quá rồi, có nghĩ thế thật cũng không nên nói thẳng câu cuối ra vậy chứ."

Nhược Trúc nghiến răng nghiến lợi, căm hận: "Em hít sâu một hơi, vất vả mãi mới nén được lửa giận, tiếp tục ôn hòa bảo hắn: 'Nhưng thế lửa lớn lắm, chàng mà không tới cứu thiếp trước, thiếp sẽ chết cháy mất.' Kết quả, mọi người đoán xem hắn trả lời thế nào?"

Chúng ta đều cười lắc đầu, tỏ vẻ đoán không ra. Cô bèn công bố đáp án: "Hắn nói: 'Không đâu, nàng không bệnh không ốm, chạy lại nhanh, có khi nhà vừa bốc khói nàng đã chạy ra rồi không chừng, chẳng cần đến ta cứu.'"


9. Phu thê

Biểu cảm cô sinh động, bắt chước thần thái của phu quân mình khi nói lời ấy nom y như thật, tức khắc làm dậy lên một trận cười vang dội khắp sảnh, đến hai thị nữ hầu sau lưng cô cũng không giữ nổi lễ tiết, lấy tay áo che miệng, cười đến run rẩy cả người.

Bản thân Nhược Trúc thì không cười, thay vào đó căm phẫn bất bình: "Lúc đó em tức đến suýt nữa định đốt nhà thật. Sau nghĩ lại, được, chàng nói thiếp chạy nhanh đúng không? Vậy thiếp chạy cho chàng xem! Liền không nói hai lời, phất tay áo bỏ đi. Thoạt đầu cho là hắn sẽ biết đường đuổi theo nên đi rất nhanh, còn suy nghĩ nếu hắn chạy tới bắt tay mình lại, mình nhất định phải vùng thật mạnh ra mới được... Đợi một lát không thấy hắn đuổi theo, em lấy làm lạ, bèn bước chậm lại, nhưng vẫn không nghe thấy tiếng bước chân hắn, quay đầu nhìn thử, nào ngờ căn bản chẳng thấy bóng hắn đâu! Hừ, nói không chừng hắn còn tưởng sắp đến giờ dùng bữa, em chỉ đi giục kẻ dưới dọn cơm nước đấy thôi. Em nhất thời nổi giận, lập tức sai người chuẩn bị xe, đi tới đây."

"Ừ, em rể quả thực không đúng. Tuổi cậu ấy cũng đâu còn nhỏ nữa, sao không biết nhường nhịn dỗ dành em ít câu, để em không dưng rước bực vào người thế này." Trương phu nhân cười than, lại kéo tay Nhược Trúc, vỗ về, "Cơ mà, nói thật, muội muội em cũng có chỗ không phải. Vô duyên vô cớ hỏi cậu ấy như vậy làm gì? Em bảo cậu ấy phải đáp thế nào? Nói cứu người khác trước, tất nhiên là em không vừa lòng, nhưng nếu cậu ấy nói cứu em trước thì có khác nào coi nhẹ cố nhân, có mới nới cũ, vô tình vô nghĩa, em nghe rồi có vui nổi không?"

Nhược Trúc bĩu môi: "Nói thì nói vậy, nhưng em muốn biết địa vị em trong lòng hắn ra sao mà!" Buông một tiếng thở dài, cô lại hậm hực: "Có đôi khi, em cảm thấy chắc mình sinh sai thời điểm rồi. Nếu sinh sớm mười mấy năm, gặp được hắn trước khi hắn lấy vợ rồi xuất giá làm nguyên phối của hắn, hai người nâng khay ngang mày sống bên nhau đến giờ, như là chị và anh rể vậy, không có ngăn cách, chẳng phải mọi thứ đều ổn thỏa rồi sao?"

Nghe thấy nói đến mình, nụ cười của Trương phu nhân phai nhạt đi phần nào, chân thành nói với Nhược Trúc: "Ta và anh rể em cũng chẳng phải không có ngăn cách, không sầu không lo như em tưởng tượng đâu... Tuy chàng chỉ có mình ta là vợ, trước nay chưa từng nạp thiếp, nhưng ta vẫn chưa sinh được cho chàng một trai nửa gái nào. Nay chàng đã bốn mươi rồi, ta cũng chẳng còn trẻ trung gì, thế nên cũng càng thêm lo âu, cứ cảm thấy hổ thẹn với chàng, lại đâm nóng lòng mong chàng mau chóng nạp thiếp, để một cô gái khác cùng hầu hạ chàng, giúp chàng nối dõi tông đường."

Nhược Trúc hỏi: "Thế anh rể có bằng lòng nạp thiếp không?"

"Nếu bằng lòng thì ta còn phát sầu thế này làm gì?" Trương phu nhân cười khổ: "Có lần, ta đã chọn xong cho chàng một nàng hầu xinh đẹp rồi. Một hôm nọ, bảo tiểu nương tử ấy trang điểm sẵn sàng, đến thư phòng Quân Thực hầu hạ. Ai ngờ em ấy vào rồi, Quân Thực đến nhìn cũng chẳng nhìn đến, chỉ chuyên tâm đọc sách. Tiểu nương tử ấy muốn làm chàng chú ý, bèn thuận tay cầm lấy một quyển sách, cất tiếng hỏi chàng: 'Học sĩ, đây là sách gì?' Quân Thực liếc sách, sau đó chắp tay với em ấy, nghiêm túc đáp: 'Đây là <Thượng thư>.' Sau đó lại tiếp tục đọc sách, không để ý tới nữa. Tiểu nương tử không biết phải làm sao, đành rời đi, kể lại với ta việc này. Khi đó ta nghĩ, có lẽ là vì ta ở nhà, Quân Thực băn khoăn nên mới không tiện gần gũi với em ấy. Qua mấy ngày, ta mượn cớ sang nhà bạn ngắm hoa, ra cửa từ sớm. Tiểu nương tử trang điểm ăn vận hoa lệ đến thư viện dâng trà cho Quân Thực, nào hay Quân Thực trông thấy em ấy lại tức giận không vui, mắng em ấy: 'Con hầu này! Hôm nay viện quân (*) không ở nhà, ngươi tới đây làm gì?'"

(*) Tức huyện quân, vốn là danh xưng gọi phụ nữ có phong hiệu, sau thê tử nhà phú hào bình thường cũng được gọi là "viện quân".

Nhược Trúc nghe vậy cười, an ủi Trương phu nhân: "Chuyện nối dõi, nếu anh rể không có ý cưỡng cầu thì tỷ tỷ cần gì phải để tâm? Huống hồ, nghe nói huynh ấy đã thu nhận con cháu trong tộc làm con thừa tự rồi. Anh rể không muốn nạp thiếp, chứng tỏ đối với chị tình thâm ý trọng, thật khiến người ta hâm mộ xiết bao. Nếu em nạp thiếp cho ai kia, hắn nhất định cầu còn chẳng được. Hai ngày trước hắn theo em ra ngoài ngắm đèn, lại cứ nhìn chằm chằm cái bóng mỹ nhân cổ dài ánh đèn rọi ra, rõ rành rành cái thứ háo sắc, tương lai chẳng biết em còn phải chịu bao nhiêu tủi hởn đây!"

Trương phu nhân kinh ngạc: "Cậu ấy nhìn cái bóng đèn soi mà em cũng có ý kiến? Không khỏi đa đoan quá rồi đi? Cậu ấy làm đại thần triều đình mà còn chịu theo vợ ra ngoài ngắm đèn đã là tốt lắm rồi, em còn oán thán lắm thế, há chẳng phải có phúc mà chẳng tự biết?"

Công chúa nghe vậy, hỏi Trương phu nhân: "Lẽ nào Tư Mã học sĩ không chịu cùng phu nhân ra ngoài ngắm đèn?"

"Lại chẳng à!" Nhắc tới việc này, chân mày Trương phu nhân cũng hiện vài phần hờn dỗi, "Mỗi lần ăn tết, chàng đều không chịu ra ngoài du ngoạn cùng ta. Có một năm, cũng vào dịp Nguyên Tiêu, ta muốn ra cửa ngắm đèn, nói với chàng, chàng lại hỏi ta: 'Trong nhà cũng đốt đèn, hà tất phải ra ngoài xem?' Ta mới giải thích: 'Thiếp muốn ngắm cả du khách trên đường nữa.' Chàng nghe xong, lườm ta, nói: 'Chẳng lẽ ta không phải người, là ma chắc?'"

Câu này vừa xuất khẩu, mọi người đều phì cười. Trương phu nhân lại hỏi Nhược Trúc: "Em xem, nếu cho em chọn, em có bằng lòng chọn một tên đầu gỗ như Quân Thực vậy không, hay là tiếp tục chung sống cùng em rể?"

Nhược Trúc ngẫm nghĩ, tuy không đáp, song cúi đầu không cầm được nhoẻn cười, đáp án đã rõ ràng.

Trương phu nhân lại nhẹ giọng thở dài, nói: "Trên đời làm gì có cặp phu thê nào mười phân vẹn mười? Có rất nhiều vợ chồng, trong mắt người khác cái gì cũng tốt, tôn trọng lẫn nhau, ân ái muôn phần, hòa thuận tốt đẹp, nhưng ẩn tình trong đó cũng chỉ có thể ấm lạnh tự biết. Thế nhưng, lẽ nào chỉ vì trong hôn nhân có chút khuyết điểm mà không tiếp tục nữa? Em nuôi một cội thược dược cũng phải kiên nhẫn chăm sóc hằng ngày, nó mới có thể nở rộ tưng bừng. Cặp phu thê nào oán giận lẫn nhau, tự cảm thấy không thể sống nổi cùng nhau, ấy có thể là vì thiếu cái kiên nhẫn tưới nước trừ sâu đó... Phu quân em tài hoa cái thế, tướng mạo, tính tình lại tốt, thế gian hiếm có, thế nên lệnh tôn mới yêu quý người con rể này đến vậy, tỷ tỷ em qua đời lại gả em cho cậu ấy. Nam nữ thế gian hàng ngàn hàng vạn, có thể kết làm phu thê là duyên phận khó đắc giữa hai em, nên biết tự quý trọng mới phải. Huống chi suốt hai năm qua, cậu ấy đối xử với em có thể nói hết lòng che chở, săn sóc chu đáo, em còn gì để bất mãn nữa đây? Dẫu có chút chuyện nhỏ làm em không vui, cũng tội gì mà không khoan thứ, rộng lượng chút ít là sẽ qua thôi. Nếu thường xuyên chỉ vì nửa câu một lời mà nổi nóng phát giận, lâu dần sẽ chỉ gây tổn thương lớn đến tình cảm mà thôi."

Nhược Trúc cúi đầu nghe, cũng không phản bác, một lúc lâu sau mới mở miệng, lại không nói đến chuyện mình mà cười trỏ vào công chúa và ta: "Trên đời chắc gì đã không có đôi phu thê nào mười phân vẹn mười? Em thấy hai người họ tốt lắm, trong mắt chỉ có nhau, bên nhau lại hòa hợp như vậy."

Công chúa nghe thế, lập tức phản đối: "Còn lâu ấy, bọn tôi cũng có vấn đề – có đôi lúc tôi bảo bảo huynh ấy giúp tôi làm chút chuyện huynh ấy cũng không chịu, còn bắt tôi phải năn nỉ kia!"

Trương phu nhân liền hỏi: "Có phải chuyện cô muốn cậu ấy làm chẳng tốt lành gì nên mới khiến lang quân khó xử vậy không?"

Nhược Trúc lại hỏi: "Thế nhưng, nếu chị khăng khăng thì cuối cùng huynh ấy vẫn nhận lời chứ gì?"

Công chúa kinh ngạc: "Sao hai người biết?"

Nhược Trúc và Trương phu nhân cùng rộ cười, quay sang nhìn ta. Ta cụp mắt cúi đầu, tiếp tục mỉm cười giữ im lặng, mà trong lòng thì chớp lóe một ý nghĩ như mây đen: Thực ra, vấn đề lớn nhất của chúng ta là chúng ta căn bản không phải phu thê, hơn nữa, cả đời này cũng không thể kết làm phu thê."

Song, cảm xúc ảm đạm ấy của ta cũng chẳng duy trì được bao lâu, sau đó, dưới lầu vọng lên tiếng ngựa hí, cắt ngang nỗi lòng ta.

Trương phu nhân đứng dậy, đến bên song cửa ngó ra ngoài, chợt ngậm cười nghiêng đầu, nói với Nhược Trúc: "Nói thật vậy, hôm nay nhận được thư em, thấy em viết nghiêm trọng quá chừng, đến câu 'gặp người không ra sao' cũng nói ra được, thấy kinh ngạc hết sức, lại không biết tình hình cụ thể ra sao, nên đến nhà em hỏi em rể trước. Cậu ấy kể với ta, lúc đó vốn định chọc cười em, không ngờ em lại cho là thật, lúc em ra ngoài, cậu ấy nhất thời không phản ứng kịp nên mới không đuổi theo. Sau, ta hẹn với cậu ấy, ta tới gặp em trước rồi cậu ấy tới đón em về. Bây giờ cậu ấy đã tới dưới lầu rồi, em bớt giận mà về với cậu ấy đi thôi."

Công chúa và ta cũng tới bên cửa sổ xem, quả nhiên trông thấy dưới lầu có một văn sĩ ngồi trên lưng ngựa, khoác một tấm áo choàng tay rộng có mũ trùm đầu, mũ trùm che đi nửa khuôn mặt, khiến người ta không sao thấy rõ được tướng mạo chàng, nhưng vẫn có thể cảm nhận được dáng dấp chàng thanh tú, phong nhã hào hoa.

Nhược Trúc lưỡng lự, cuối cùng vẫn dời gót tới cạnh song thoáng ngó xuống, văn sĩ nọ nhác thấy bóng cô, lập tức khẽ giọng gọi: "Nương tử, đêm đã khuya, chúng ta về nhà thôi."

Hiển nhiên chàng dè chừng người chung quanh nên không dám cao giọng hô hoán.

Nhược Trúc nghe vậy, khóe miệng nhếch lên, xoay người nắm tay A Địch, cúi đầu rủ rỉ vào tai cô bé mấy câu. A Địch gật đầu, chỉ vào ghế đẩu bảo thị nữ chuyển giúp mình đến bên cửa sổ, sau đó trèo lên, chân đạp ghế, khuỷu tay chống trên bệ cửa, nhìn văn sĩ dưới lầu, kế tiếp dùng giọng nói trong trẻo của mình hỏi chàng: "Phùng thúc thúc, thím bảo cháu hỏi chú, chú là ai ấy nhỉ?"

Giọng cô bé lảnh lót, lại thản nhiên dùng âm lượng vừa đủ nói ra câu quái dị này, nghe vào rất thú vị, nghĩ hẳn có thể gây sự chú ý cho người trong ngoài tửu lâu.

Văn sĩ nọ có vẻ xấu hổ, song nghĩ ngợi một hồi, vẫn thấp giọng nói gì đó.

A Định lắc đầu, dõng dạc hỏi chàng: "Gì cơ ạ?... Nghe không rõ!"

Văn sĩ kia như hít lấy một hơi thật sâu, hai vai thõng xuống, đại khái là bất chấp mọi sự, ngửa mặt lên, mũ trùm đầu theo đó tuột xuống, lộ ra dung nhan tuấn mỹ mà cả ta và công chúa đều nhớ rõ.

"Tại hạ Phùng Kinh đất Giang Hạ." Chàng cất cao giọng đáp, ánh mắt phóng ra sau A Địch, truy tìm bóng hình Nhược Trúc.

Trên dưới tửu lâu nhất thời rộ lên một tràng "ầm ầm" tiếng mở cửa sổ, vô số cái đầu từ trong lầu vươn ra, ánh mắt sôi nổi đậu lên Phùng Kinh, người đi đường cũng dừng bước, nhao nhao tò mò nhìn chàng chằm chằm, chỉ trỏ về phía chàng, thậm chí còn có rất nhiều du khách hoặc tửu khách nam nữ nhiệt tình từ bốn phương tám hướng vây lại, liên thanh gọi chàng "Phùng trạng nguyên", "Phùng học sĩ" hoặc "Phùng nội hàn".

Phùng Kinh cũng chẳng còn sức đâu mà để ý tới Nhược Trúc nữa, ngồi trên lưng ngựa, lúng túng gật đầu chào hỏi những người gọi mình, cười trái đáp phải, khó xử vô cùng.

Mà Nhược Trúc thì nghiêng người núp sau chấn song, ôm A Địch cười gập cả bụng.


10. Xuân hàn

Lúc nghe Nhược Trúc kể chuyện nhà mình, ta đã có suy đoán về thân phận cô, hiện giờ đáp án được công bố đại thể không khác ý nghĩ ta bao nhiêu, cô là thứ nữ của tế tướng Phú Bật, cháu gái ngoại của Án Thù. Năm đó Phu Bật gả trưởng nữ Nhược Lan cho Phùng Kinh trước, sau đó Nhược Lan vì ốm bệnh mà qua đời, Phú Bật lại gả Nhược Trúc cho Phùng Kinh làm vợ kế. Hiện giờ trong kinh đô còn có người vịnh Phùng Kinh: "Có anh nho đỗ tam nguyên, hai lần cưới vợ đều nhà tướng công.", chính là chỉ việc này. Phu nhân Phùng Kinh công chúa gặp ở tiệc rượu trong cung năm ấy là Nhược Lan, mà Nhược Trúc thì hẳn thành hôn với Phùng Kinh khi chàng nhậm chức bên ngoài, thế nên trước hôm nay cô chưa có lần nào gặp công chúa, đôi bên mới không nhận ra nhau.

Ta đương nhiên không quên để ý phản ứng của công chúa. Kể từ lúc nghe A Địch gọi "Phùng thúc thúc", nụ cười trên mặt nàng đã hơi cứng lại, đợi đến khi Phùng Kinh tự vạch trần thân phận, nét tươi vui trong mắt nàng như pháo hoa bung nở đến cuối, chỉ còn lại vụn sáng yếu ớt trôi giạt, nhoáng cái đã biến thành làn khói nhẹ, lắng bặt mất tăm.

Thế nhưng, nàng vẫn duy trì nụ cười, tựa vào một bên chấn song ngắm Nhược Trúc, ánh mắt an yên như sóng nước vỗ về lên khóe mắt đuôi mày của Nhược Trúc, tìm không ra chút bóng dáng cảm xúc tiêu cực nào tỷ như đố kỵ hay buồn bực trong đó. Nàng chỉ yên lặng đứng đó ngắm cô gái cùng tuổi mình này hạnh phúc, như đang thưởng thức một tác phẩm hội họa tinh xảo không hề liên quan gì đến mình.

Lúc Phùng Kinh đi lên, công chúa đã đội mũ quây vào, cáo từ Nhược Trúc. Nhược Trúc lưu luyến níu tay nàng, hỏi nàng tính danh, bày tỏ hi vọng có thể thường xuyên gặp nàng. Công chúa mỉm cười: "Có duyên ắt sẽ gặp lại."

Dứt lời, nàng xoay người rời đi. Khoảnh khắc đi ngang qua Phùng Kinh, nàng khẽ vén một góc màn che mũ quây lên, liếc chàng một cái như cười như không. Phùng Kinh trông thấy dung nhan nàng, không khỏi ngẩn người, song rất nhanh đã khôi phục lại trạng thái bình thường, nở nụ cười hờ, khẽ khom người với nàng.

Cảnh tượng mới quen thuộc làm sao, tựa như trở về bên Kim Minh Trì năm xưa, công chúa đương tuổi xuân thì gặp gỡ lang quân áo xanh vừa mới đăng khoa, nàng yêu kiều mỉm cười trong ngựa báu xe hương, má hồng xinh đẹp và mối tình thiếu nữ chớm nở như ẩn như hiện sau lớp màn sa. Giờ đây tái ngộ, chẳng biết Phùng Kinh chỉ là cảm thấy nàng như đã từng quen biết hay vẫn còn nhớ rõ người con gái nét mày tựa dáng non xa đã đưa tay vén rèm trong xe chạm mà chàng gặp mặt ngày ấy khi đề tên bảng vàng, cưỡi ngựa trong gió xuân.

Màn che rủ xuống, nàng dõi mắt nhìn thẳng dời bước ra ngoài, không một lần ngoảnh lại. Mãi đến khi cách xa gian phòng kia, nàng mới dừng bước, tay vuốt ve lan can đỏ son cạnh thang lầu, nhẹ giọng hỏi ta: "Bây giờ cách Hoàng Hựu năm thứ nhất đã bao lâu rồi?"

Ta đáp: "Mười một năm."

Nàng lặng thinh, sau đó thở dài: "Lâu vậy kia à... Cứ như nằm chiêm bao ấy."

Lắc đầu, như muốn thoát khỏi dấu tích giấc mộng tàn này, nàng một lần nữa nhoẻn cười, ngẩng đầu chuẩn bị bước tiếp. Nhưng, đúng lúc này, một cảnh tượng bất ngờ hiện ra trước mắt đã giáng cho nàng một đòn nặng nề.

Đối diện nàng, phía bên kia sảnh lớn tửu lâu xuất hiện một nhóm nữ quyến trang phục hoa lệ son phấn đẹp đẽ, hẳn là vừa kết thúc buổi ngắm đèn trên lầu, họ tốp năm tốp ba nói cười rôm rả, khoan thai đi tới thang lầu bên kia. Trong đó có một thiếu phụ trẻ tuổi, dường như hành động bất tiện, bước đi chậm hơn hẳn những người khác, mà bầu bạn bên người cô là một nam tử dáng người tựa ngọc, đang cẩn thận dìu cô, thỉnh thoảng mỉm cười nói gì đó bên tai cô, trong mắt không chút che giấu vẻ quan tâm và nồng nàn ân ái.

Lúc thiếu phụ kia xuống lầu còn đặc biệt lấy tay ôm bụng, nhìn kỹ bậc thang dưới chân rồi mới dè dặt đặt bước, điều này khiến người xem có thể dễ dàng để ý đến cái bụng hơi nhô lên của cô. Mà nam tử kia thì lại càng thêm giữ gìn cẩn thận, mỗi rung động rất nhỏ của cô đều có thể khiến cậu hồi hộp khẩn trương.

Cảnh tượng tình tứ ấy khiến công chúa đông cứng tại chỗ. Bước đi khựng sững, nụ cười điêu tàn, nàng còn chưa kịp rơi lệ, ta đã nghe thấy tiếng cõi lòng nàng tan nát.

Người ấy chính là Tào Bình.

Cậu và công chúa gần nhau đến thế, cậu chỉ cần ngẩng đầu lên là có thể chạm đến ánh mắt sâu kín của nàng. Nhưng không, cậu chẳng rảnh mà để tâm đến, người phụ nữ trong mắt cậu lúc này tựa hồ đã choán kín thế giới trước mặt cậu. Nói cậu đang dìu cô, chẳng bằng nói cậu đang nâng cô trong lòng bàn tay. Chẳng có gì phải nghi ngờ, người vợ đang mang thai cho cậu một sinh mệnh mới này đã được cậu coi là bảo vật vô giá.

Công chúa không tiếp tục bước lên mà ngược lại, đi về phía bao lơn tầng hai, im lặng đứng sau lan can, nhìn Tào Bình và thiếu phụ kia sóng vai ra khỏi Bạch Phàn Lâu,

Cậu đỡ cô lên xe, sau đó tự mình cưỡi ngựa, đi trước xe cô. Từ biệt mấy năm, cậu vẫn mang dáng vẻ thiếu niên xán lạn trong ký ức của chúng ta, tuấn mã tung vó, tay áo giương roi. Công chúa lẳng lặng dõi theo cậu đi xa, nhìn khói chiều cuốn lấy tay áo cậu suốt dọc đường về.

Tào Bình khuất bóng rồi, nàng vẫn không có ý định rời đi, đăm đăm nhìn hướng xe ngựa đi xa trong gió đêm lồng lộng, thẳng đến khi Nhược Trúc bỗng xuất hiện sau lưng nàng, cười nói: "Ơ, chị vẫn còn ở đây à?"

"À, tôi ở đây, hóng gió ấy mà." Công chúa xoay người, vội vàng đáp. Nhìn Nhược Trúc, nàng hỏi ngược lại: "Sao chị lại ra đây?"

Nhược Trúc cười chỉ vào nghệ nhân biểu diễn trên bao lơn, nói: "Tôi nghe thấy bên này có người hát bài từ của cậu bảy nhà tôi nên ra xem thử."

Có tám, chín nghệ nhân diễn tấu đàn sáo, ở giữa là một ca cơ nghiêm trang ôm tỳ bà, vừa nhàn nhã gảy dây vừa ngâm nga câu hát, xướng một bài "Giá cô thiên" của Án Kỷ Đạo, con trai thứ bảy của Án Thù. Công chúa lắng tai nghe, lúc này, ca cơ đang hát đến nửa bài sau: "Tụ dễ tan, thà rỗi nhàn. Chớ để ly hận hại dung nhan. Đây gấm uyên ương ai cùng đắp, chung giấc lầu tây tiết xuân hàn?"

Lúc ta đánh xe đưa nàng về phủ công chúa, bánh xe nghiến qua dấu xe ngựa nhà họ Tào lưu lại, sau đó đó đổi hướng, chạy ra xa. Vết bánh xe của song phương trải dài thành đường vòng cung ngẫu nhiên giao nhau, sau nháy mắt đan xen lại kéo dài theo quỹ tích của chính mình, có lẽ khó có ngày nào hợp lại lần nữa, ta nghĩ, giống như vận mệnh của nàng và Tào Bình vậy, thậm chí là cả với Phùng Kinh.

Trên đường trở về, ngoài trầm mặc ra, công chúa không có bất kỳ biểu hiện dị thường nào khác, song đến canh tư, Gia Khánh Tử hầu trong gác ngủ của nàng lại gõ cửa phòng ta.

"Công chúa vừa tỉnh lại, đang lặng lẽ nằm khóc đấy ạ." Con bé báo với ta, "Bọn em nghe thấy, vội hỏi người nguyên nhân, người lại không chịu nói, chỉ rơi lệ không ngừng. Tiên sinh mau qua xem thế nào đi."

Ta lập tức chạy sang. Vào gác ngủ của nàng, thấy mấy thị nữ thiếp thân và Hàn thị đều đang tụ trước giường nàng, nhao nhao khuyên nhủ, công chúa lại như không nghe thấy, ôm chăn ngồi ở đầu giường, vùi đầu giữa hai đầu gối, khe khẽ thút thít.

Hàn thị thấy ta tiến vào, đứng dậy kéo ta ra ngoài màn che, nhỏ giọng hỏi: "Tối qua công chúa ra ngoài đã nhìn thấy gì à?"

Gia Khánh Tử hẳn đã nói cho bà biết chuyện ta và công chúa ra ngoài. Vì vậy, ta dứt khoát đáp: "Nhìn thấy Tào Bình."

Bà hiểu ra, thở dài thườn thượt: "Thật đúng là oan nghiệt..."

Sau đó, bà dẫn chúng thị nữ ra ngoài, trước khi đi dặn dò ta: "Lần trước con khuyên được công chúa, bây giờ cũng gắng khuyên bảo người nhiều chút. Ở đây hiện giờ cũng chỉ có lời con nói là lọt được vào tai người."

Đợi họ ra cửa rồi, ta đi tới trước giường công chúa, nhẹ nhàng gọi nàng. Đợi một chốc, rốt cuộc nàng cũng ngước cặp mắt đẫm lệ lên nhìn ta, nức nở: "Trước khi đi ngủ, Vân nương nói với ta, trăng đêm nay rất đẹp, nhân ngày cuối cùng của tết Nguyên Tiêu, hay là ước lấy một điều. Ta bèn thầm ước trong lòng, hi vọng khi tỉnh dậy sẽ thấy mình mới chỉ tám, chín tuổi, phiền não duy nhất là không thuộc xong thi văn cha giao, vấn đề lớn nhất là làm thế nào để thuyết phục huynh viết văn thay mình..."

Thế nhưng, ban nãy nàng tỉnh lại, phát hiện ra mình vẫn bị vây hãm chốn này, không thể trở về được nữa... Ta giữ tiếng thở dài trong đáy lòng, yên lặng ngồi xuống bên cạnh nàng, nghĩ ngợi rồi nói với nàng: "Sẽ luôn có những thứ không bao giờ thay đổi, bất kể công chúa tám, chín, mười tám, mười chín, hay tám, chín mươi tuổi."

"Thứ gì?" Nàng nghẹn ngào hỏi ta.

"Chẳng hạn như, ống tay áo của thần, cái bóng của người, và..." Ta không nói hết, chỉ dang rộng tay với nàng.

Nàng thoáng chốc hiểu ý, cũng nhẹ nhàng ghé lại, tựa vào lòng ta.

Và hơi ấm ta có thể cho nàng.

Ta không tài nào thay đổi được vận mệnh nàng, nhưng ít nhất có thể hứa hẹn với nàng, sẽ dâng ống tay áo của mình khi nàng rơi lệ, thổi lên vết thương nàng khi nàng đau đớn, cho nàng tất thảy hơi ấm ta có thể dành tặng khi nàng rét lạnh.

Lư hương trong gác đã nguội, màn sa buông rủ, móc ngọc vén hờ trướng phượng hoàng. Hai ta đều không nói gì nữa, cứ vậy ôm lấy nhau, nghe tiếng đồng hồ nước điểm canh, xem ánh nến dần lụi tắt, mặc cặp đèn cầy ngoài rèm tan thành vũng lệ, làm tranh chuối tố nữ trên bình phong trước giường tối sầm, thẳng đến khi sương lạnh trăng tàn, tinh tú mờ ảo rọi ánh xanh lam lên mành song.

Khoảng thời gian yên tĩnh ấy kết thúc khi trời hửng sáng. Tiếng bước chân trùng điệp vọng từ xa lại gần, xen lẫn với tiếng Gia Khánh Tử: "Quốc cữu phu nhân, công chúa chưa tỉnh giấc, xin hãy đợi ngoài sảnh chốc lát..."

Ta lập tức buông công chúa ra, sải bước ra ngoài màn che, mà cùng lúc đó, Dương phu nhân đẩy cửa bước vào, bốn mắt chạm nhau, đều hiện vẻ cả kinh.

Bà nhíu mày, hoài nghi đưa mắt đánh giá ta một lượt từ trên xuống dưới, sau đó dời sang màn che hãy còn phất phơ, thoáng do dự rồi rảo bước qua, vén thốc lên.

Công chúa ngồi trên mép giường, kinh ngạc quay đầu nhìn Dương thị.

Bấy giờ, chân mày nàng mỏng nhạt, lớp trang điểm cũ còn vương, tóc mai xõa rối, trâm cài nghiêng lệch, dấu lệ vô cùng rõ ràng.

Hơn nữa, thật không may, nàng còn đang làm động tác khoác áo.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Fan